Nhiều khó khăn 'bủa vây' trong thu hút đầu tư vào các dự án điện khí

Ngày 18/12, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) phối hợp Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam tổ chức diễn đàn về chuỗi phân phối khí LNG toàn cầu và vị thế của Việt Nam.

Quang cảnh diễn đàn.

Quang cảnh diễn đàn.

Chia sẻ tại diễn đàn, bà Đặng Thị Thủy, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Bộ Công Thương cho biết, nhu cầu thị trường khí Việt Nam, bao gồm khí tự nhiên nội địa và khí LNG nhập khẩu giai đoạn 2030 – 2050, cơ cấu nguồn cung khí tại Việt Nam từ nguồn mỏ trong nước sẽ chiếm từ 40% – 45%, nhu cầu khí nhập khẩu LNG ở Việt Nam sẽ dao động từ 55% - 60%. Nhu cầu sử dụng LNG sẽ tập trung tại 4 lĩnh vực: Sản xuất điện; nông nghiệp; sản xuất phân bón và hóa dầu.

“Dự án điện và kho cảng LNG đang khiến thị trường LNG tại Việt Nam trở nên sôi động, lượng khí LNG nhập khẩu vào Việt Nam sẽ phục vụ chính cho việc sản xuất điện khí nhằm giảm thiểu phát thải gây ô nhiễm môi trường từ nhiệt điện than, cùng với đó là đảm bảo nguồn cung ổn định trước sự sụt giảm của tài nguyên than đá, thủy điện do hạn hán và khai thác quá mức đe dọa sản lượng phát điện trong tương lai gần”, bà Thủy cho biết.

Tuy nhiên, cũng theo vị chuyên gia này, do gia nhập thị trường LNG quốc tế muộn, Việt Nam buộc phải tuân thủ các thông lệ quốc tế được định sẵn trong quá trình nhập khẩu LNG. Thêm vào đó cơ sở vật chất và hành lang pháp lý cho việc nhập khẩu LNG đang trong giai đoạn hoàn thiện, chưa thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Đức Tùng, Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương cho biết, Việt Nam hiện vẫn dừng lại ở vai trò nhập khẩu và tiêu thụ LNG, chưa phát triển được các cơ sở khai thác, hóa lỏng, và phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà cung cấp LNG nước ngoài.

Hiện Việt Nam mới tiếp xúc với thị trường LNG mua giao ngay, chưa ký bất kỳ hợp đồng mua bán LNG dài hạn nào. Việc phụ thuộc vào các giao dịch ngắn hạn làm cho giá LNG thường xuyên biến động, chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như thị trường quốc tế, chính sách xuất nhập khẩu của các nước cung cấp, và các biến động giá nhiên liệu. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của các nhà máy điện và các cơ sở công nghiệp mà còn gây khó khăn trong việc lập kế hoạch đầu tư và hoạt động lâu dài.

Liên quan đến phát triển nguồn điện khí LNG đến năm 2030, ông Lã Hồng Kỳ, Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước các dự án ngành năng lượng thông tin, trong số khoảng 14 dự án nhiệt điện khí đang triển khai, ngoại trừ nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4 dự kiến vận hành vào quý II và III/2025, các dự án điện khí có thể đưa vào vận hành thương mại trước năm 2030 gồm: Các dự án trong Trung tâm Điện lực Ô Môn, Hiệp Phước giai đoạn 1, tổng công suất các dự án đưa vào vận hành trước 2030 là 6.634 MW. Các dự án còn lại chỉ có thể đưa vào vận hành đến 2030 nếu hoàn thành đàm phán hợp đồng PPA, GSA và thu xếp vốn vay trước 2026.

Các khó khăn ở đây bao gồm về phía các địa phương là một số tỉnh chưa tiến hành lựa chọn được nhà đầu tư do còn lúng túng, chậm trễ trong công tác phê duyệt chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Bên cạnh đó hiện chưa rõ chủ đầu tư các đường dây đấu nối đồng bộ do một số đường dây đấu nối đồng bộ để giải tỏa công suất cho các dự án nhà máy điện lớn chưa được giao chủ đầu tư, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện các dự án đường dây và việc đàm phán các thỏa thuận đấu nối giải tỏa công suất cho một số dự án điện khí.

Bởi vậy, theo ông Kỳ, để các nhà máy nhiệt điện khí được triển khai đúng tiến độ thì ngoài việc xác định cơ cấu nguồn điện phù hợp thì cần tập trung xây dựng cơ chế, chính sách để giải quyết các khăn này.

Ông Nguyễn Ngọc Hiếu, Vụ Dầu khí và Than (Bộ Công Thương) cho biết thêm, bên cạnh việc Chính phủ luôn quan tâm đầu tư và phát triển ngành Dầu khí, có định hướng phát triển theo từng thời kỳ, nhu cầu sử dụng các sản phẩm khí xanh, sạch ngày càng cao, thì các cơ chế, chính sách mới đang được hoàn thiện; giá điện LNG cao hơn so với giá các nguồn điện truyền thống dẫn đến khó cạnh tranh; chi phí đầu tư cao do công nghệ phức tạp và có bản quyền, thị trường toàn cầu biến động.

Các chuyên gia nhấn mạnh rằng để thành công trong ngành công nghiệp LNG toàn cầu, Việt Nam cần tập trung vào việc đầu tư vào công nghệ và hạ tầng. Điều này bao gồm việc phát triển các cơ sở hạ tầng hiện đại để nhập khẩu và phân phối LNG, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong quá trình vận chuyển và xử lý khí tự nhiên hóa lỏng.

Thu Trang/Báo Tin tức

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/kinh-te/nhieu-kho-khan-bua-vay-trong-thu-hut-dau-tu-vao-cac-du-an-dien-khi-20241218155041265.htm