Nhìn nhận khủng hoảng do đại dịch COVID-19 để thu hút hiệu quả vốn FDI
Khủng hoảng kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra là cơ hội để kiểm tra lại phương pháp thu hút và duy trì hiệu quả các dự án FDI, đồng thời tạo liên kết kinh tế giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước.
Theo Hội nghị LHQ về thương mại và phát triển (UNTAC), do tác động tiêu cực của dịch bệnh, dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) toàn cầu ước giảm từ 30% đến 40% trong giai đoạn 2020-2021. Tất cả các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng, nhưng FDI giảm mạnh và rõ ràng trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan đến tiêu dùng như: Hàng không, khách sạn, nhà hàng, các ngành sản xuất và lĩnh vực năng lượng. Việc thu hẹp FDI ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước đang phát triển.
Có thể nói đại dịch COVID-19 đang định hình lại hướng đi của dư luận toàn cầu, dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại. Điều này thúc đẩy sự ngăn chặn lẫn nhau; cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn ngày càng khốc liệt. Sau khi đại dịch bùng phát, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Đặc biệt, chính phủ các nước trên thế giới đã có giải pháp bảo vệ các doanh nghiệp trong nước để không bị phá sản hoặc bị nước ngoài thâu tóm.
Nếu FDI toàn cầu bị thu hẹp trong một thời gian dài, hậu quả đối với các nước đang phát triển sẽ rất nặng nề và nghiêm trọng bởi các nước này có danh mục dòng vốn FDI đa dạng và lợi ích tiềm năng của dòng vốn này rất lớn. Dòng vốn FDI không chỉ thúc đẩy doanh thu xuất khẩu ở các nước đang phát triển mà còn tạo ra nhiều việc làm, tác động tích cực hơn đến phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất.
Tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Vốn FDI thực hiện bình quân giai đoạn 2016-2019 chiếm trên 23% trong tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; tỉ trọng bình quân GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2016-2019 chiếm 19,8% trong tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế; thu hút gần 5 triệu lao động; tạo ra lợi nhuận cao nhất khi chiếm tới trên 42% trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp; hiệu quả đầu tư kinh doanh của khu vực FDI thể hiện qua các chỉ tiêu như hiệu suất sinh lợi trên tài sản (ROA) và hiệu suất sinh lợi trên doanh thu thuần (ROS) đều cao hơn khá nhiều so với khu vực kinh tế trong nước.
Định hình chính sách thu hút FDI hậu COVID-19
Chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài chỉ là bước đầu tiên hướng tới một chiến lược FDI thành công. Thuyết phục các nhà đầu tư ở lại và mở rộng hoạt động là yếu tố then chốt để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế. Với bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc và hệ lụy do đại dịch COVID-19 mang lại, việc thu hút FDI ở nước ta trong thời gian tới cần có những thay đổi về chiến lược, chính sách và đòi hỏi năng lực, tinh thần dân tộc của các cấp lãnh đạo có liên quan.
Trong thập kỷ tới, thu hút FDI phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030, đặc biệt phải quy định rõ những ngành nào, lĩnh vực nào cần ưu tiên thu hút FDI trên nguyên tắc những ngành và lĩnh vực doanh nghiệp trong nước có khả năng làm được thì không kêu gọi đầu tư nước ngoài.
Do khu vực công nghiệp phụ trợ còn non yếu, giai đoạn 2021-2030, Chính phủ cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các dự án FDI đầu tư và sản xuất tại Việt Nam theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước để doanh nghiệp Việt có điều kiện tiếp cận trực tiếp công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại và tri thức kinh doanh tin cậy.
Hiện nay kinh tế thế giới đang vận hành trong bối cảnh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế số. Vì vậy chính sách thu hút FDI cần lựa chọn và ưu tiên các nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn lớn, đầu đàn trong ứng dụng công nghệ đến từ các nước tiên tiến, xóa bỏ việc thu hút FDI tràn lan như thời gian qua.
Nước ta đã thuộc nhóm quốc gia có mức thu nhập trung bình, trong thập kỷ tới thế giới có nhiều biến động và thay đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, để kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, trên cơ sở thu hút FDI có chọn lọc, cần đặc biệt quan tâm đến xây dựng và củng cố nội lực của nền kinh tế, xây dựng tri thức và văn hóa kinh doanh; đào tạo và sử dụng đội ngũ thu hút FDI có năng lực, tinh thần dân tộc và trách nhiệm cao, đồng thời xây dựng và thực thi các chế tài đủ mạnh nhằm ngăn chặn việc vụ lợi trong thực thi thu hút FDI.
Để khôi phục kinh tế sau đại dịch sẽ cần một nguồn lực đáng kể. Dòng vốn FDI là một trong các nguồn lực quan trọng đó. Do vậy, Chính phủ cần rà soát và bổ sung các quy định, điều kiện để thu hút, duy trì và sàng lọc các khoản đầu tư hiệu quả có ý nghĩa quan trọng hơn là thu hút FDI để tối đa hóa tăng trưởng kinh tế. Nhìn nhận khủng hoảng do đại dịch gây ra là cơ hội để chính phủ kiểm tra lại phương pháp thu hút và duy trì hiệu quả các dự án FDI phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa đất nước đồng thời tạo liên kết kinh tế giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước.
Để đạt được mục tiêu này, có 3 lĩnh vực trọng tâm đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cần có phương pháp tiếp cận mới.
Thứ nhất, Chính phủ khẩn trương đưa ra các giải pháp và phương thức hỗ trợ khu vực doanh nghiệp trong nước vượt qua khó khăn về tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hỗ trợ phí vận chuyển, lưu kho lưu bãi… Cần xây dựng hệ thống chứng nhận chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi cung ứng của các công ty nước ngoài và cải tiến cơ sở hạ tầng kỹ thuật số cho phép doanh nghiệp hoạt động từ xa theo chuỗi giá trị toàn cầu và vươn ra thị trường nước ngoài.
Thứ hai, sửa đổi quy định đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất để cộng đồng doanh nghiệp trong các khu này liên kết kinh tế, đặc biệt tạo dựng mối liên kết giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước nhằm tạo dựng và phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước.
Thứ ba, có giải pháp tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký và sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh đó, hiện nay mua bán và sáp nhập đang trở thành xu thế trong đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng về kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế, để tránh các ngành và lĩnh vực kinh tế trọng điểm bị các nhà đầu tư nước ngoài bị các nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát và thâu tóm, cần xác định ngưỡng cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp cổ phần hóa, đặc biệt cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm xem xét cụ thể các thương vụ M&A lớn, điển hình trong mấy năm qua để thấy rõ những mặt tồn tại, đúc kết thành bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Cùng với đó, cần xác định cụ thể danh mục ngành, lĩnh vực cần thu hút đầu tư nước ngoài và ngành lĩnh vực chỉ các nhà đầu tư trong nước thực hiện. Đặc biệt, xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường và thật sự có năng lực; đồng thời ban hành các quy định để bảo vệ uy tín và hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư nghiêm túc, luôn tuân thủ pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định và có chế tài để quản lý hiệu quả hoạt động của đầu tư nước ngoài trên địa bàn; xử lý nghiêm các dự án đã cấp phép nhưng không triển khai thực hiện và các vấn đề khác có liên quan như: trốn và nợ thuế, sử dụng lao động Việt Nam và lao động nước ngoài, sử dụng đất, ô nhiễm môi trường.
Khẩn trương hoàn thiện và thực hiện nghiêm, hiệu quả thể chế chính sách quản lý, giám sát đầu tư nước ngoài phù hợp với quan hệ kinh tế mới, mô hình và phương thức kinh doanh mới, bảo vệ thị trường trong nước, đồng thời tạo điều kiện cho khu vực trong nước phát triển phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.
Nguyễn Bích Lâm
(nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê)