Nhớ ngày độc lập

Mỗi lần về lại bến sông, qua chiếc cầu phao bập bềnh sóng nước cạnh những vạt hoa lục bình nở tím, tôi vẫn không quên ngày độc lập đầu tiên ấy.

Mùa thu năm ấy, vùng quê tôi còn đang rã rời trong nạn đói thì trời lại làm lụt lớn, nước ngập đồng ruộng, tràn vào trong làng, xóa cả ranh giới ao chuôm, biến mấy cái ao lớn liền nhau cạnh nhà thành như một đoạn sông. Buổi chiều có một chiếc thuyền chở mấy người, vừa đẩy thuyền đi vừa hát. Tiếng hát vang vọng cả xóm làng “Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc”. Con thuyền có lá cờ đỏ sao vàng, cứ băng băng lướt đi, không bờ bụi nào ngăn cản được. Mẹ tôi ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nhưng T. - anh tôi - một người có học, có chí hướng thì vui ra mặt. Anh bảo: “Thế là cách mạng đến rồi! Việt Minh về đấy!”.

Tôi nghe chưa hiểu gì mấy thì hôm sau được theo anh T. cùng mấy người trong làng kéo sang phủ huyện Tứ Kỳ, chỉ cách làng hơn cây số và một bến sông. Đó là con sông Tràng Thưa chảy qua nhiều địa giới nên đến gần đâu thì gọi tên nơi ấy như sông Bía, sông Vạn… Qua quê tôi - nơi gần phủ huyện có đồn lính gác nên gọi là đò Đồn. Lần đầu tiên mẹ đưa tôi qua đò đến nhà thương uống thuốc giun. Ấn tượng nhất là viên y tá quát “há miệng ra” rồi nhỏ những giọt thuốc tẩy giun, lờn lờn, hắc hắc vào miệng. Còn lần này, đi theo anh T., từ xa đã thấy bến đò rợp đỏ màu cờ. Tới gần, có rất nhiều thuyền to, mủng nhỏ trên cắm cờ soi bóng đỏ dòng sông. Tôi chưa hiểu chuyện gì thì anh T. bảo đó là thuyền chở thóc do Việt Minh tước từ tay giặc Nhật chia cho người dân đang bị nạn đói, đã nhiều người chết.

Bước chân lên phố là cảnh tượng tôi chưa từng thấy bao giờ. Người đông, nhà nhà treo cờ, hai bên đường trên các bức tường hay giậu cây xanh đều giăng cờ giấy, hoa giấy. Anh T. cứ phải nắm tay tôi đi không sợ lạc, gặp ai cũng tươi cười, hồ hởi. Nhiều người ôm nhau, vừa nói vừa khóc. Cửa miệng là những câu nghe như khẩu hiệu mà thật xúc động “Hoan hô Việt Minh!”, “Thoát chết đói rồi!”, “Độc lập muôn năm!”…

Chúng tôi đến một khu đất rộng, trước là sân đá bóng. Trên sân có rất đông người xếp hàng, cũng có người mang súng thật, còn phần lớn là súng gỗ, gậy gộc, giáo mác. Họ là dân quân tự vệ, tốp thì tập bắn súng, nơi đấu võ, ném lựu đạn hay đấu kiếm… rất náo nhiệt, sôi động. Anh T. bảo trong số đó có cả những người là bạn học.

Đi tiếp đến một khu có tự vệ canh gác nên không được vào. Đó là dinh tri phủ Tứ Kỳ trong thời Pháp. Còn chưa biết thế nào thì có một tốp người từ trong cổng phủ đi ra, trong đó có người là bạn thân thiết anh T. Họ rất vui và kháo nhau về chuyện đêm qua. Với vũ khí thô sơ như giáo mác, gậy gộc…, Việt Minh đã đột nhập vào phủ Tứ Kỳ. Bị bất ngờ, tri phủ Nguyễn Bá Ngà và toàn bộ lính tráng trong phủ đã ngoan ngoãn đầu hàng, bàn giao quyền kiểm soát cho Việt Minh. Tiếp đó, Việt Minh nhanh chóng phá kho thóc Nhật 300 tấn ở đò Đồn để cứu đói cho dân. Nghe tin này, người trong phủ kéo về bến đò rất đông, cùng nhau nhận thóc, cứu đói cho hàng vạn người trong vùng.

Đó là sự kiện cách đây ba phần tư thế kỷ. Ngày nay, dù trung tâm huyện Tứ Kỳ đã dời đi nơi khác nhưng bên đường xuống bến đò Đồn vẫn còn bia kỷ niệm. Và mỗi lần về lại bến sông, qua chiếc cầu phao bập bềnh sóng nước cạnh những vạt hoa lục bình nở tím, tôi vẫn không quên ngày độc lập đầu tiên ấy, càng nhớ những thế hệ người lái đò, cả những nhân chứng của ngày vùng lên giành chính quyền, để từ những người dân nô lệ, đói rách trở thành công dân của nước độc lập, tự do, vượt qua nạn đói kinh hoàng.

NGUYỄN THẾ TRƯỜNG

Nguồn Hải Dương: http://baohaiduong.vn/chinh-tri/nho-ngay-doc-lap-145735