Những người thợ thủ công cuối cùng ở Văn La

Trong dòng chảy biến thiên của lịch sử và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, các nghề thủ công truyền thống dần mai một và nhiều công đoạn đã được thay thế bằng máy móc hiện đại. Các nghề thủ công ở làng Văn La xưa (xã Quảng Ninh) cũng không nằm ngoài quy luật đó. Những người thợ làm nghề rèn, nghề tiện gỗ, nghề làm bánh tráng, bánh ướt, nghề làm tơi nón… giờ chỉ còn đếm trên đầu ngón tay và hầu hết đều đã cao tuổi. Dấu vết vàng son thuở trước giờ chỉ còn là những dòng miêu tả trong cuốn địa chí làng, như nhắc nhớ thế hệ sau về một thời tất bật ngược xuôi, vào ra tấp nập của thương lái ở làng Văn La.

Năm nay hơn 60 tuổi, bà Đỗ Thị Châu (thôn Văn La, xã Quảng Ninh) đã có hơn 40 năm theo nghề làm bánh ướt, bánh tráng.

Bà tâm sự, nghề này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong gia đình. Thuở nhỏ, bà theo mẹ học việc, phụ giúp các công đoạn đơn giản. Lớn lên, mẹ bà truyền nghề lại cho con gái và con dâu. Hiện tại, cả hai chị em đều theo nghề, bên cạnh nghề nông là sinh kế chính. Nếu các xưởng khác đều đã có máy móc thay thế nhiều công đoạn, thì bà và chị dâu vẫn “trung thành” với cách làm bánh ướt, bánh tráng thủ công. “Bởi, như thế mới giữ nguyên được hương vị thơm ngon của gạo, cái bùi béo của vừng và cái mặn mòi của hạt muối quê hương”, bà Châu chia sẻ.

Lò nấu bằng đất nung được bà làm từ năm 1999 đã cùng gia đình vượt qua bao thăng trầm, khó khăn của cuộc sống mưu sinh. Lò được xây kín, chỉ để một phía để đun củi, phía trên gắn kín một chiếc nồi bảy, một tấm vải mỏng giăng kín miệng nồi, nồi có nắp đậy để hấp chín bánh.

Các công đoạn và cách thức làm bánh ướt, bánh tráng được bà giữ như cách mẹ bà làm ngày xưa. Từ cách chọn gạo quê, hạt trắng đều, rồi cách ngâm gạo (2-3 tiếng với bánh tráng, 1 tiếng với bánh ướt), cho đến hấp bánh bằng nồi hơi và đem phơi thành phẩm đối với bánh tráng. Chiếc máy hiện đại duy nhất hiện nay chính là máy xay bột nhỏ được bà mới sắm để giảm bớt công sức khi tuổi đã cao.

Những lúc nhớ nghề, ông Lê Phước Dào lại tìm về với góc nhà quen thuộc, nơi có bể lò rèn,có chiếc đe, chiếc búa một thời gắn bó - Ảnh: M.N

Những lúc nhớ nghề, ông Lê Phước Dào lại tìm về với góc nhà quen thuộc, nơi có bể lò rèn,có chiếc đe, chiếc búa một thời gắn bó - Ảnh: M.N

Khi nước trong nồi sôi, bà Châu đong một gáo nhỏ nước bột, mở nắp vung, đổ nước bột lên đầy mặt vải, rồi dùng đáy gáo dàn đều bột sao cho thật mỏng. Sau đó, đậy nắp vung và đợi bột chín, mở vung, lấy que cời luồn vào khoảng giữa vải và bánh, nâng bánh ra khỏi khuôn và cứ tiếp tục quy trình cho hết bột. Riêng với bánh tráng, bà sử dụng tấm mê (đan thưa, nan cách nhau 6-7cm) hình chữ nhật, sao cho mỗi tấm có bề ngang phơi được 3 chiếc, bề dọc khoảng 10 chiếc. Khi phơi trời nắng, cần chú ý trở mặt bánh sao cho đều, cho khéo.

Tuy thu nhập từ nghề thấp, nhưng khá ổn định, mang lại công việc khi nông nhàn, nên dù vất vả, bà vẫn quyết tâm giữ nghề truyền thống của gia đình. Trước đây, mỗi ngày bà làm 30kg bánh ướt, 150 cái bánh tráng, bánh ra đến đâu khách đến lấy ngay. Nay thì sức mua giảm, vì khách hàng quen với bánh làm máy, hiện bà chỉ còn bán chưa đến 5kg bánh ướt mỗi ngày. Bánh tráng thì khó hơn, có khi 150 cái bán 1 tuần chưa hết. Khách đến mua bánh ướt lại có thú vui mà không phải nơi nào cũng có, đó là ngồi đợi tráng bánh bên bếp lửa hồng rực đỏ.

“Sản phẩm sạch từ nguyên liệu đến cách chế biến, mua đến đâu, làm đến đấy, nên khách hàng hoàn toàn yên tâm về chất lượng”, em Nguyễn An Phương, người thôn Văn La, khách hàng thường xuyên của bà Châu cho biết.

Giờ ở Văn La, hầu như chỉ còn hai chị em bà Châu là làm bánh theo cách thủ công, các hộ còn lại thường đã bỏ nghề hoặc làm bằng máy móc hiện đại. Nghề làm bánh cứ thế mai một dần. Bà Châu ngậm ngùi tâm sự, chắc tới đây, bà sẽ bỏ bếp lửa đi thôi, vì thu nhập thì chẳng đáng là bao, trong khi công sức bỏ ra lại nhiều, nên con cái không muốn bà vất vả thêm. Chỉ tiếc là hai cô con gái của bà không có ai muốn theo nghề của mẹ…

“Và thật mong chờ một định hướng phát triển du lịch song hành với việc bảo tồn, giới thiệu các nghề truyền thống này cùng các di tích lịch sử ở thôn Văn La (địa đạo Văn La, di tích mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm…) trong tương lai”, ông Đỗ Duy Văn chia sẻ.

Một nghề khác của làng Văn La xưa nay cũng chỉ còn sót lại một vài người thợ cuối cùng. Đó chính là nghề thợ rèn. Chúng tôi tìm gặp anh em ông Lê Phước Dồi, Lê Phước Dào (xóm 4, thôn Văn La). Người anh nay đã vào Nam sinh sống cùng con cháu, nay chỉ có người em Lê Phước Dào ở lại. Tuy bể lò rèn vẫn còn, dụng cụ vẫn sẵn sàng, nhưng tuổi cao sức yếu, ông Dào chỉ thỉnh thoảng nhớ nghề mới quay trở lại cầm búa.

Ông Lê Phước Dào (SN 1961) tâm sự, đây là nghề được truyền qua 4 đời gia đình ông và là sinh kế của cả đại gia đình thời điểm đó. Còn nhớ, không biết bao nhiêu cuốc, rạ, dao, liềm của làng trên xóm dưới do chính tay anh em ông rèn nên. Khi vợ ông còn sống, hàng ngày, bà đưa nông cụ đi bán ở chợ, còn ông ở nhà miệt mài bên bể lò rèn đỏ lửa. Sau này bà mất, ông một mình vừa làm, vừa đi bán, vất vả, khó khăn. Giờ con cái đã trưởng thành, ông cũng đành “chia tay” với nghề truyền thống cha ông.

“Trong làng vẫn còn một số nhà làm nghề rèn, nhưng máy móc đã hiện đại hơn, tuy nhiên, cũng không thể bám trụ lâu dài bởi thời đại hiện nay, máy móc đã thay thế nhiều công đoạn trong sản xuất nông nghiệp. Thời hưng thịnh của nghề rèn làng Văn La giờ chỉ là hoài niệm…”, ông Lê Phước Dào trầm ngâm chia sẻ.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian Đỗ Duy Văn, làng “bát danh hương” Văn La vốn có nhiều nghề thủ công truyền thống đa dạng, phong phú cho thấy sức sáng tạo và tinh thần yêu lao động của bà con nơi đây. Trước “cơn lốc” kinh tế thị trường, hầu hết các nghề đều đã mai một, chỉ còn lại một vài người thợ thủ công cuối cùng với nỗ lực níu giữ nghề cha ông để lại. Đó cũng là nỗ lực của bà con để lớp trẻ hiện nay hiểu rõ hơn về một thời quá khứ vàng son của thế hệ trước.

Mai Nhân

Nguồn Quảng Trị: https://baoquangtri.vn/xa-hoi/202509/nhung-nguoi-tho-thu-cong-cuoi-cung-o-van-la-78402aa/