Những nữ giao liên cụm tình báo nội đô

Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) - Người chỉ huy Cụm Tình báo chiến lược A.18 - H.63 luôn mang nặng trong lòng món nợ với những người phụ nữ làm công tác liên lạc đã mưu trí, dũng cảm; vượt qua muôn vàn khó khăn, nghiệt ngã; lặng lẽ hy sinh cho sự an toàn của mạng lưới tình báo.

Ông gọi lực lượng đặc biệt ấy là những nữ giao thông mật. Ông nói thêm: “Cũng như giao liên bên biệt động, đội ngũ này linh hoạt lắm, đảm nhận một đường dây bí mật trải dài đến mọi miền đất nước”. Ngay tận Bến Tre, Bà Rịa, ở đâu có cơ quan Y4, có cơ quan Trung ương Cục đóng thì từ đó có những đường dây đỏ bủa về Sài Gòn. Từ hơn 30 năm nay, những địa chỉ đỏ tăng lên, những đường dây đỏ dày đặc như một mạng lưới…”.

Vợ chồng Đỗ Thị Lượng - Nguyễn Văn Hoành cùng các cô con gái tạo thế hợp pháp gia đình công chức khá giả, đưa đón cụm trưởng H.63 Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) ra vào nội đô hoạt động tình báo

Vợ chồng Đỗ Thị Lượng - Nguyễn Văn Hoành cùng các cô con gái tạo thế hợp pháp gia đình công chức khá giả, đưa đón cụm trưởng H.63 Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) ra vào nội đô hoạt động tình báo

Đường dây tình báo H63 có một người phụ nữ quê mùa, thầm lặng. Với chiếc tràng bán cà rá, vòng vàng giả, bà Nguyễn Thị Ba - một nữ giao thông liên lạc cho cơ quan bí mật của Đảng ở Sài Gòn từ năm 1940 đã kiên trì bảo toàn bí mật cách mạng. Trong đường dây cụm tình báo H63, với nghề bán đồ nữ trang giả, bà chuyển tài liệu, tin tức từ nhà tình báo chiến lược Phạm Xuân Ẩn ra vùng căn cứ và truyền đạt chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên cho cán bộ tình báo nội thành.

Như cách nói của Phạm Xuân Ẩn: “Điệp viên may mắn là điệp viên chưa bị bắt”, bà thực sự may mắn vì không bị địch phát hiện. Cách hoạt động của bà được miêu tả trong quyển sách “Điệp viên hoàn hảo” của Larry Berman: “Bà Nguyễn Thị Ba thường chỉ mang gói thư của ông Phạm Xuân Ẩn đến Hóc Môn, nằm giữa chặng đường đến Củ Chi. Tại đây, bà chuyển tiếp gói thư đó cho một người liên lạc khác. Bà cũng chẳng cần biết ông Phạm Xuân Ẩn sống ở đâu. Đây thực sự là một cặp tình báo viên thuộc loại cổ điển nhất và cũng hiệu quả nhất trong lịch sử”.

“Lúc mới hoạt động với tôi, chị Ba đã 44 tuổi, hơn tôi gần 10 tuổi. Chị vô Đảng từ hồi 1936. Chồng chị, anh Phước ra Bắc năm 1952, trước cả Điện Biên Phủ. Chị gởi hai cháu Ánh Hương và Chiến Thắng ở nhà ngoại. Sau cả hai cháu đều lên trên cứ học tập và hoạt động. Chúng tôi coi nhau như hai chị em ruột, còn hơn nữa. Tôi quý trọng chị vô cùng. Còn chị, chị cũng thương tôi vì chị hiểu việc tôi làm là rất quan trọng cho đằng mình. Chị chuyên gánh hàng bánh bình dân, rồi bán đồ vàng giả cho trẻ nít, đi khắp các chợ Bình Chánh, Gò Đen, Bà Chiểu, Bến Lức.

Nữ giao liên Nguyễn Thị Ánh

Nữ giao liên Nguyễn Thị Ánh

Tháng 4 năm 2009, tôi tìm bà ở nhà riêng tại huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Nhớ lại những ngày hoạt động trong cụm tình báo với Phạm Xuân Ẩn, bà cười nói: “Hòa bình, Ẩn tìm gặp tôi. Ôi trời, thật là sung sướng khi hai chị em lần đầu tiên được nói chuyện tự do. Vậy mà hai chị em nước mắt cứ tuôn trào. Tôi chửi nó: “Dạo đầu gặp mày, Hai à, tau rất sợ vì mày chơi sang quá!”. Con chó bẹc-giê với chiếc xe Pơ-giô của mày tau ớn muốn chết!”. Bà trách yêu, cậu em chỉ biết cười trừ: “Hai chị em cười với nhau, kể lại đủ thứ chuyện. Tôi cứ nghĩ mình có thành tích nhỏ một phần thì chị Ba có công lớn tới ba, bốn phần”. Điều đặc biệt là cả hai điệp viên may mắn ấy đều được Nhà nước tuyên dương AHLLVT cùng ngày 15/01/1976.

Góp phần bảo vệ vỏ bọc hoàn hảo cho nhà tình báo chiến lược Phạm Xuân Ẩn còn có những người phụ nữ thầm lặng ở bàn đạp vùng căn cứ Phú Hòa Đông, Củ Chi. Chồng hy sinh để lại 4 đứa con thơ dại, vượt qua nghịch cảnh, nữ tình báo mang bí số Z24 đã dũng cảm, mưu trí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một “giao thông viên” cho cụm tình báo H.63. Chị Ánh là một phụ nữ xinh đẹp, thông minh, lanh lợi. Chị từng cải trang, mưu trí giúp Nguyễn Văn Tàu vượt qua các trạm gác về Sài Gòn chuẩn bị cho Mậu Thân 1968. Len lỏi từng ngóc ngách khu chợ, Hai Ánh bắt liên lạc với bà Nguyễn Thị Ba, có khi là “ông khách” mà sau này chị mới biết là Phạm Xuân Ẩn…

Mỗi chuyến đi là một trận chiến đầy cam go, đối mặt với sinh tử. Một lần chị xuống Hóc Môn bị địch chặn lại xét giấy. Lần này, tên lính kiên quyết đòi khám chồng bánh tráng. Tài liệu cho bà Ba chị đã nghi trang, nhét vào ổ bánh mì. Riêng tài liệu gởi Phạm Xuân Ẩn được vo tròn thành viên, giấu trong chồng bánh tráng rơi ra. Hai Ánh thót tim nhưng chị cố trấn tĩnh, lấy chân dẫm lên. Tên lính quát hỏi: “Cái gì vậy?”. “Ui da, kiến cắn, đau quá”. Đợi tên lính quay đi, chị nhanh tay bỏ viên tài liệu vào miệng nuốt. Nhưng liền sau đó, trong lòng chị tràn ngập nỗi lo, tài liệu gởi cho bà Ba còn nguyên trong ổ bánh mì nhưng phần cho “ông khách” thì chị đã nuốt. Một ý nghĩ lóe sáng trong đầu, chị vội vào quán mua nước dừa, cố uống cho đầy bụng. May quá, viên tài liệu còn nguyên. Chị nhặt lên, lấy tiền gói lại, cho vào túi.

Khi gặp bà Ba, chị mới thấm nỗi sợ hãi, òa khóc. Tình đồng đội sẵn sàng yêu thương, đùm bọc, thậm chí sẵn sàng hy sinh để bảo toàn bí mật tổ chức là nguồn động viên to lớn, giúp chị có thêm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ. Biết chồng Hai Ánh hy sinh, mình chị nuôi hai con nhỏ vừa đảm đương công tác giao thông mật, “ông khách” vô cùng thương cảm. Ông thường gởi cho chị vài hộp sữa con chim. Chị Ánh nói: “Tôi không dám nhận, bởi biết “ông khách” đi làm cách mạng cũng không thể giàu có. “Ông khách” gạt đi nói: “Em cứ lấy về cho con. Em không nói làm sao tổ chức biết mà rầy em. Mà nếu lỡ bị rầy, anh chịu”. Tôi cầm mấy hộp sữa mà nước mắt rưng rưng. Chuẩn bị Mậu Thân 1968, anh Tư Cang vào nội thành, tôi tiếp tục phục vụ anh.

Từ trái sang: Anh hùng LLVT Nguyễn Thị Ba, bà Hà Thị Kiên, Nguyễn Thị Ánh trong cuộc họp mặt H.63 cuối năm 2007

Từ trái sang: Anh hùng LLVT Nguyễn Thị Ba, bà Hà Thị Kiên, Nguyễn Thị Ánh trong cuộc họp mặt H.63 cuối năm 2007

Không sao quên được chồng bánh tráng tôi mang vào thành phố sáng mùng ba Tết, trong đó giấu khẩu súng ngắn và mấy mươi viên đạn. Anh Tư Cang mang số vũ khí này về nhà Tám Thảo, để đêm mùng 3 Tết, anh Tư chia lửa với các đồng chí Biệt động tấn công vào Dinh Độc Lập…”. Tôi hỏi chị Ánh: “Bí quyết để an toàn trong nguy hiểm?”. Chị cười nói: “Sau chiến tranh, có lúc tôi ngồi lại, suy ngẫm về những chuyện đã qua, có lúc rùng mình sợ hãi. Tự tôi có những nguyên tắc cho mình. Không bao giờ tôi tò mò mở “hàng” để xem nó là gì, bởi những gì ẩn trong đó thật tò mò, hấp dẫn. Nhưng tôi kiên quyết thắng sự tò mò cố hữu của đàn bà, bởi lỡ bị bắt, thà không biết gì thì tôi cũng chẳng biết để khai”.

Và còn nhiều người phụ nữ thầm lặng khác như Hà Thị Kiên (Tám Kiên) được Cụm trưởng tình báo H63 giao nhiệm vụ làm liên lạc hỏa tốc từ trong thành đi ngay ra căn cứ mỗi khi có tài liệu cần kíp. Để đường dây được bảo đảm, thông suốt, chị chấp nhận thoát ly công tác, về sống hợp pháp ở nội đô Sài Gòn, xây dựng cơ sở cách mạng. Trong Mậu Thân 1968, chị vừa là giao thông viên đường dài của cụm tình báo H63, đưa cán bộ xâm nhập thành phố và từ nội đô ra chiến khu; vừa tham gia chôn cất tử sĩ trên cánh đồng bưng Bình Mỹ. Đó còn là vợ chồng Đỗ Thị Lượng, Nguyễn Văn Hoành - giao thông viên cho cụm tình báo H.63; trong vai gia đình tư sản, lái xe cùng gia đình đưa cụm trưởng Cụm tình báo H.63 ra vào nội đô nắm tin tức, tình hình phục vụ tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Sau Mậu Thân, bị địch bắt vào tù khi con mới 5 tháng, bà kiên cường chịu đựng những trận đòn, giữ bí mật đường dây tình báo. Những người phụ nữ trung kiên ấy đã dâng hiến cuộc đời mình cho đường dây thầm lặng, góp phần làm nên cơn bão nổi ngay trong lòng nội đô xuân Mậu Thân 1968.

Kỳ Nam

Nguồn CA TP.HCM: http://congan.com.vn/tin-chinh/50-nam-giai-phong-mien-nam-thong-nhat-dat-nuoc/nhung-nu-giao-lien-cum-tinh-bao-noi-do_177452.html