Những tiêu chí bắt buộc bảo đảm chất lượng khi đại học đào tạo cao đẳng
Theo chuyên gia giáo dục, việc đại học tham gia đào tạo cao đẳng là bước đi cần thiết nhưng không thể 'mạnh ai nấy mở'.

Ảnh minh họa
Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi). Trong đó, cho phép cơ sở Giáo dục Đại học (GDĐH) được thực hiện các chương trình đào tạo của Giáo dục nghề nghiệp (GDNN). Cụ thể là cho phép Cơ sở GDĐH được nâng cấp từ trường cao đẳng (CĐ) và cơ sở GDĐH có trường CĐ sáp nhập vào trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục tuyển sinh trình độ CĐ (dự kiến kết thúc đào tạo đối tượng này sau 5 năm nữa).
Ngoài ra, thể chế hóa Nghị quyết số 57 và tiếp thu ý kiến của một số đại biểu Quốc hội, Chính phủ rà soát và bổ sung quy định cho phép các cơ sở GDĐH đang đào tạo nhóm ngành thuộc Danh mục công nghệ chiến lược theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thực hiện chương trình đào tạo trình độ CĐ cùng nhóm ngành.
Tránh làm méo mó giáo dục nghề nghiệp
TS. Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo) nhận định, việc cho phép ĐH đủ điều kiện đào tạo CĐ xuất phát từ nhu cầu thực tế.
"Thị trường đang thiếu kỹ thuật viên bậc cao "làm được việc ngay", trong khi mạng lưới GDNN ở nhiều nơi còn manh mún, trùng ngành, có chỗ thiếu năng lực đào tạo ngành mới. Thêm nữa, thực tế đã có địa phương sáp nhập trường CĐ vào ĐH, nên nếu "cấm" CĐ trong ĐH thì vừa gây sốc, vừa lãng phí cơ sở vật chất và làm đứt mạch cung ứng nhân lực kỹ thuật. Hơn nữa, hạn chế của mô hình tách biệt hiện nay là đôi khi "ngăn sông cấm chợ" quá chặt, thiếu các lộ trình tích lũy – liên thông linh hoạt theo nhu cầu người học và doanh nghiệp, nhưng mở cửa cũng phải cảnh giác động cơ "mở để hút tuyển sinh", biến CĐ thành công cụ cứu chỉ tiêu", TS. Hoàng Ngọc Vinh phân tích.
Ở góc độ quy hoạch mạng lưới, TS. Hoàng Ngọc Vinh cho rằng quy định mới sẽ tái phân bổ nguồn tuyển sinh. Thương hiệu "đại học" thường hút hơn "cao đẳng", nên nếu không có van điều tiết, người học sẽ dồn về "CĐ trong ĐH", khiến nhiều trường CĐ độc lập khó tuyển và hệ thống GDNN bị teo lại và có nguy cơ ảnh hưởng đến các trường nghề ngoài công lập đã đầu tư rất lớn cho đào tạo nghề. Điều này có thể làm lệch mục tiêu cân đối cung - cầu nhân lực kỹ thuật: thay vì tăng người "ra nghề", lại tăng người "giữ chỗ để lên ĐH".
Ngược lại, nếu gắn chặt chỉ tiêu CĐ với nhu cầu địa phương/doanh nghiệp theo cụm ngành, khoanh rõ ngành được mở và bắt buộc công khai dữ liệu việc làm, thì CĐ trong ĐH có thể lấp khoảng trống kỹ năng ở những nơi GDNN chưa kịp củng cố sau sắp xếp.

Việc cho phép cơ sở giáo dục đại học đủ điều kiện đào tạo cao đẳng xuất phát từ nhu cầu thực tế. Ảnh minh họa
Bên cạnh đó, TS. Hoàng Ngọc Vinh bày tỏ sự lo ngại quy hoạch mạng lưới GDNN và làm méo mó sứ mệnh của cơ sở GDNN khi ĐH tham gia đào tạo CĐ. "Thách thức lớn nhất là lệch chuẩn đầu ra và lệch triết lý đào tạo. CĐ đúng nghĩa phải nặng thực hành, học để làm, trong khi một số ĐH giảng viên lại có thói quen dạy ĐH thiếu gắn với thực hành, dễ biến CĐ thành phiên bản ĐH rút gọn. Đây là thách thức lớn nhất, dễ thành "nửa thầy nửa thợ".
Ngoài ra, cơ chế quản lý và kiểm định quan trọng, nhưng nếu chuẩn đầu ra nghề và tỷ lệ thực hành/thực tập doanh nghiệp không được "cột chặt" và đo bằng năng lực làm việc thực tế, thì quản lý kiểu gì cũng dễ xảy ra cảnh qua mặt cơ quan quản lý để được đào tạo. Đó là chưa kể đến sự khác nhau giữa việc kiểm định cơ sở GDĐH theo các tiêu chuẩn, sứ mệnh, mục tiêu, tổ chức bộ máy...", TS. Hoàng Ngọc Vinh bày tỏ.
Đào tạo minh bạch, phù hợp nhu cầu xã hội
Trước những lo lắng trên, TS. Hoàng Ngọc Vinh khẳng định, phải có tiêu chí bắt buộc, không thể linh động, xê dịch để cấp phép ĐH đào tạo CĐ.
Thứ nhất là khi nhu cầu nhân lực ở ngành nghề tại địa phương mà hiện tại trường CĐ ở đó không đáp ứng được về số lượng và chất lượng hoặc trường CĐ sáp nhập vào trường ĐH "được lên đời" ĐH nhưng còn một bộ phận giảng viên chỉ có khả năng đào tạo CĐ hay Trung học nghề cần khai thác hết.
Thứ hai là phải có đủ điều kiện cơ sở vật chất, hợp tác với doanh nghiệp đào tạo thực hành để đảm bảo chất lượng đào tạo CĐ theo quy định.
Thứ ba là chương trình dạy học thiết kế phù hợp với Khung trình độ quốc gia ở trình độ CĐ.
Thứ tư là đội ngũ giảng dạy đáp ứng tiêu chuẩn năng lực, đặc biệt kỹ năng thực hành nghề nghiệp.
Cuối cùng là cần tách bạch tiêu chuẩn kiểm định chương trình CĐ nếu được đào tạo trong trường ĐH.

Cần gắn chặt chỉ tiêu CĐ với nhu cầu địa phương/doanh nghiệp theo cụm ngành. Ảnh minh họa
Ngoài ra, TS. Hoàng Ngọc Vinh nhấn mạnh 5 việc cần làm ngay để tránh "mạnh ai nấy mở" và xây hệ sinh thái GDNN–ĐH liên thông minh bạch phục vụ doanh nghiệp.
Thứ nhất là ngành nào được mở CĐ trong ĐH phải bám nhu cầu nhân lực vùng/địa phương và năng lực thực hành thật, không chạy theo "ngành hot".
Thứ hai là làm sao để CĐ ra CĐ, không phải là "ĐH em trong trường ĐH".
Thứ ba là doanh nghiệp tham gia từ thiết kế chương trình, tổ chức thực tập đến đánh giá năng lực, coi đây là điều kiện cấp phép chứ không phải phong trào ký kết hợp tác cho đẹp hồ sơ.
Thứ tư là công khai toàn bộ thông tin tuyển sinh - đào tạo - việc làm trên nền tảng số để xã hội giám sát.
Đặc biệt khâu hậu kiểm phải nghiêm túc. Mở được thì đóng được, để CĐ đào tạo ra kỹ thuật viên bậc cao có kỹ năng kỹ thuật, chứ không thành đường vòng liên thông luôn ĐH. "Không phải trường ĐH tận dụng tuyển sinh CĐ để tăng nguồn thu nhưng lại không chú trọng đến sứ mệnh chính là đào tạo ĐH và phân tán nguồn lực dành cho đào tạo và nghiên cứu trong trường ĐH", TS. Hoàng Ngọc Vinh khuyến nghị.












