Chiến công 5 đặc công Việt Nam phá cả kho bom: Tháng 3/1975, Đoàn 113 nhận lệnh đánh vào phía Đông sân bay Biên Hòa, phá hủy kho bom Bình Ý và hướng dẫn cho pháo chiến dịch vào điểm xây dựng trận địa.
Trong các nhiệm vụ ấy, việc phá hủy kho bom Bình Ý để địch không còn bom đánh phá quân ta là cực khó, bởi địch tập trung bố trí phòng vệ rất cẩn mật. Tổ trinh sát của ta khi đó không tiếp cận được bên trong kho bom, bởi nhiều hàng rào phức tạp.
Cấp trên lệnh cho Đoàn 113 phải khẩn trương đánh kho bom cho kỳ được, thậm chí là dùng cách đánh của bộ binh. Sau khi đi trinh sát, ông Đỗ Văn Ninh, Trung đoàn phó đã nhận định không thể đánh theo cách bộ binh, bởi như vậy sẽ bị lộ và địch sẽ tập trung hỏa lực tiêu diệt cả trung đoàn.
Sau khi tìm hiểu kỹ địa hình, sơ đồ tác chiến…, ông Ninh đã cử một tổ gồm 5 chiến sĩ đặc công vượt sông Đồng Nai để tiếp cận với kho bom. Ở hướng đi này, 5 chiến sĩ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và kho bom đã bị phá hủy.
Tháng 4/1975, Trung đoàn 113 nhận lệnh đánh vào Chi khu Dĩ An (Thủ Đức), Thiết đoàn cơ giới Hốc Bà Thức, chốt giữ một đoạn của xa lộ Biên Hòa và đánh phá cầu Ghềnh, một trong những cây cầu huyết mạch tiến về Sài Gòn.
Kế hoạch tác chiến được vạch ra, các chiến sĩ đã di chuyển tới các vị trí chiến đấu, thì Trung đoàn 113 lại nhận được lệnh không đánh kho Dĩ An, không được phá cầu mà phải đánh, giữ cầu Ghềnh chờ đại quân tiến vào Sài Gòn.
Vào đêm 28/4 quân ta đánh chiếm Hốc Bà Thức, bắt được đại tá chỉ huy thiết đoàn của địch và hơn 30 tên lính. Sau đó địch điên cuồng dùng máy bay, xe tăng tấn công hòng chiếm lại căn cứ. Tuy nhiên, trước sự chiến đấu dũng cảm, quyết liệt của các chiến sĩ đặc công, chúng đã không thực hiện được ý đồ trên.
Nhiều trận đánh vang dội, nhưng chiến công quan trọng nhất góp phần vào đại thắng 46 năm về trước, chính là việc đánh giữ 14 cây cầu huyết mạch vào Sài Gòn, trong những ngày cuối cùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Việc bảo vệ những cây cầu huyết mạch vào thành phố, tạo điều kiện thuận lợi để 5 cánh quân của ta thần tốc tiến thẳng vào giải phóng Sài Gòn, đánh thẳng vào cơ quan đầu não địch.
Nhiệm vụ của đặc công trước kia thường đi đánh, phá và công việc này được hoàn thành dễ dàng. Song, nhiệm vụ “đánh, chiếm, giữ” là nhiệm khó khăn, bởi vì để hoàn thành nhiệm vụ, đặc công phải tiêu diệt toàn bộ giặc trên cầu vào ban đêm một cách nhanh gọn.
Trong trận Cầu Gềnh, tuy đã chiếm được cầu, nhưng do quân chủ lực của ta vẫn chưa tới, nên vào đêm 27, rạng sáng 28 và cả ngày 28, ngày 29, địch tổ chức nhiều đợt tấn công hòng cướp lại cây cầu huyết mạch.
Trước hỏa lực cực mạnh của quân thù, 50/52 chiến sĩ đặc công đã anh dũng hy sinh, song không ai vì thế mà rút khỏi trận địa. Cuối cùng, khi đại quân tiến vào, địch buộc phải rút chạy và nhiệm vụ bảo vệ cầu Ghềnh đã hoàn thành rực rỡ.
Đánh chiếm, giữ cầu là nhiệm vụ đặc biệt, thầm lặng, khó khăn, ác liệt, khốc liệt, có ý nghĩa quyết định đến bước tiến và thời cơ của chiến dịch. Do đó, lần đầu tiên Bộ đội đặc công được sử dụng với một lực lượng lớn nhất, gồm 1 sư đoàn (7 trung đoàn); 1 lữ đoàn; 4 tiểu đoàn và nhiều tổ, đội biệt động.
Nhiều trận đánh chiếm, giữ cầu đã ghi những chiến công thầm lặng của bộ đội đặc công. Nhiều chiến sĩ đã hy sinh anh dũng không phải vì đánh cầu, mà là do giữ cầu. Bởi, nếu cầu bị phá, quân ta sẽ mất rất nhiều thời gian để vừa bắc cầu qua sông, vừa chống lại địch bên kia sông dùng hỏa lực tấn công.
Trong nhiều trận đánh giữ cầu, lực lượng đặc công bị địch phản công đã phải gồng mình chống đỡ. Thậm chí, khi chỉ còn vài chiến sĩ, họ cũng quyết chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Bởi với họ, cầu còn thì người còn, cầu mất thì người chết.
Với sự quyết tâm ấy, cuối cùng, 14 cây cầu dẫn lối về Sài Gòn đã được bộ đội đặc công bảo vệ thành công, hiên ngang trong lửa đạn, để quân ta thần tốc tiến vào giải phóng Sài Gòn, góp phần làm nên mùa xuân đại thắng của dân tộc.
Thái Hòa