Những vấn đề pháp lý quan trọng trong giao dịch mua bán nợ
Mua bán nợ là một hoạt động tài chính quan trọng, đóng vai trò không nhỏ trong việc xử lý các khoản nợ xấu và tái cấu trúc tài chính của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về bản chất, quy trình cũng như những quy định pháp lý liên quan đến hoạt động này. Trong bài phỏng vấn hôm nay, chúng ta sẽ cùng trao đổi với Luật sư Đặng Thị Liễu – Công ty Luật TNHH Trần Vũ (Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội) để làm rõ hơn về khái niệm mua bán nợ, các điều kiện cần thiết, nguyên tắc thực hiện cũng như những hạn chế pháp lý mà các tổ chức, cá nhân cần lưu ý. Những thông tin hữu ích này không chỉ giúp các doanh nghiệp và tổ chức tài chính hoạt động hiệu quả hơn mà còn hỗ trợ cá nhân có cái nhìn đúng đắn về giao dịch mua bán nợ trong bối cảnh kinh tế hiện nay.

Luật sư Đặng Thị Liễu - Công ty Luật TNHH Trần Vũ (Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội).
Thưa luật sư, hiện nay tình trạng nợ xấu đang là một vấn đề rất nhức nhối, vậy luật sư có thể cho biết các khoản nợ nào được phép thực hiện mua bán nợ và nguyên tắc thực hiện mua bán nợ là gì không? Ngoài ra, việc mua bán nợ có được thực hiện bằng ngoại tệ không và ngân hàng có quyền bán nợ cho bên thứ ba hay không?
1. Về khái niệm mua bán nợ
Nợ xấu là một trong những vấn đề nan giải cốt lõi cần phải giải quyết bởi nó đe dọa đến sự ổn định và phát triển của hệ thống tài chính của quốc gia. Khái niệm mua bán nợ hiện vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam và hoạt động này mới chỉ được hình thành và phát triển trong những năm gần đây. Vậy hiểu thế nào là mua bán nợ theo quy định của pháp luật?
Bản chất của hoạt động mua bán nợ chính là việc chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định tại Điều 365 Bộ luật dân sự 2015. Khái niệm mua, bán nợ hiện được quy định rất rõ tại khoản 1 Điều 3 Thông tư số 09/2015/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà Nước theo đó mua bán nợ là sự thỏa thuận bằng văn bản về việc chuyển giao quyền đòi nợ đối với khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, khoản trả thay trong nghiệp vụ bảo lãnh, theo đó bên bán nợ chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán từ bên mua nợ.
2. Về điều kiện và nguyên tắc của mua, bán nợ
Điều kiện mua, bán nợ:
Nguồn cung chủ yếu trên thị trường mua bán nợ hiện nay là các ngân hàng thương mại với các khoản nợ xấu khổng lồ đến từ các hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh. Vậy điều kiện để các ngân hàng thương mại thực hiện việc mua bán nợ là gì?
Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 09/2015/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà Nước thì khoản nợ được mua, bán phải đáp ứng 03 điều kiện sau:
Một là, hồ sơ, chứng từ và các tài liệu có liên quan của khoản nợ được mua, bán, hợp đồng bảo đảm (nếu có) do bên bán nợ cung cấp phải phản ánh đầy đủ, chính xác thực trạng khoản nợ theo đúng quy định của pháp luật.
Hai là, không có thỏa thuận bằng văn bản về việc không được mua, bán khoản nợ.
Bà là, khoản nợ không được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại thời điểm mua, bán nợ trừ trường hợp bên nhận bảo đảm đồng ý bằng văn bản về việc bán nợ.
Như vậy, với quy định trên thì Ngân hàng thương mại hoàn toàn có quyền bán nợ cho bên thứ ba mà không phải xin phép nếu khoản nợ đáp ứng đủ điều kiện giao dịch theo Điều 4 Thông tư 09/2015/TT-NHHH nêu trên.
Nguyên tắc mua bán nợ:
Căn cứ Điều 5 Thông tư 09/2015/TT-NHHH được sửa đổi bổ sung bởi Khoản 3 Điều 1 Thông tư 18/2022/TT-NHNN quy định những nguyên tắc của việc mua, bán nợ như sau:
Hoạt động mua, bán nợ không trái với nội dung quy định tại hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã ký kết giữa bên bán nợ, khách hàng và bên bảo đảm.
Do các bên tự thỏa thuận, tuân thủ quy định tại Thông tư này và quy định của pháp luật có liên quan.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bán nợ thì không phải xin phép Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, nếu muốn mua nợ thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xin phép Ngân hàng nhà nước chấp thuận đồng thời phải có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% theo kỳ phân loại gần nhất trừ các trường hợp sau không phải đáp ứng yêu cầu tỷ lệ nợ xấu dưới 3%: (i) Tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt thực hiện mua nợ đủ tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 2 Điều 146a Luật Các tổ chức tín dụng; (ii) Tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt thực hiện mua nợ đủ tiêu chuẩn của tổ chức tín dụng hỗ trợ theo phương án phục hồi tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt đã được phê duyệt theo quy định tại khoản 1 Điều 148b Luật Các tổ chức tín dụng; (iii) Ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc mua nợ đủ tiêu chuẩn của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc theo phương án chuyển giao bắt buộc đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (iv) Tổ chức tín dụng hỗ trợ mua lại khoản nợ đã bán cho tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt theo phương án phục hồi tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt đã được phê duyệt theo quy định tại khoản 6 Điều 148đ Luật Các tổ chức tín dụng; (v) Tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc mua lại khoản nợ đã bán cho ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc.
Trước khi thực hiện mua, bán nợ, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải ban hành quy định nội bộ về hoạt động mua, bán nợ (trong đó có quy định rõ về phân cấp thẩm quyền theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định mua, bán nợ; phương thức mua, bán nợ, phương thức thanh toán; quy trình mua, bán nợ; quy trình, phương pháp định giá khoản nợ; quy trình quản trị rủi ro đối với hoạt động mua, bán nợ).
Việc mua nợ phải tuân thủ các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài.
Không mua lại các khoản nợ đã bán trừ các trường hợp: (i) TCTD mua lại khoản nợ đã bán cho tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt; (ii) TCTD mua lại khoản nợ đã bán cho tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt theo phương án phục hồi tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt đã được phê duyệt; (iii) TCTD nhận chuyển giao bắt buộc mua lại khoản nợ đã bán cho ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc.
Không được bán nợ cho công ty con trừ trường hợp: (i) Bán nợ cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản theo phương án tái cơ cấu được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (ii) Tổ chức tín dụng là bên nhận chuyển giao bắt buộc bán nợ đủ tiêu chuẩn cho ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc theo phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt.
Không được cấp tín dụng cho khách hàng để mua nợ thuộc sở hữu của chính tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó.
3. Về đồng tiền sử dụng trong mua, bán nợ
Căn cứ theo khoản 1 Điều 8 Thông tư 09/2015/TT-NHNN quy định về đồng tiền giao dịch trong hoạt động mua bán nợ thì:
3.1. Đồng tiền sử dụng trong mua, bán nợ là đồng Việt Nam. Việc sử dụng ngoại tệ làm đồng tiền thanh toán trong giao dịch mua, bán nợ chỉ được thực hiện trong trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bán khoản nợ bằng ngoại tệ cho bên mua nợ là người không cư trú.
3.2. Đồng tiền thu hồi nợ là đồng tiền của khoản nợ hoặc đồng tiền khác theo thỏa thuận giữa bên mua nợ và bên nợ phù hợp với quy định của pháp luật về hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy đồng tiền sử dụng trong mua, bán nợ của chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đồng Việt Nam. Việc sử dụng ngoại tệ làm đồng tiền thanh toán trong giao dịch mua, bán nợ chỉ được thực hiện trong trường hợp chi nhánh ngân hàng nước ngoài bán khoản nợ bằng ngoại tệ cho bên mua nợ là người không cư trú.
Mua bán nợ là một lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng về pháp luật cũng như những kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn trong giao dịch tài chính. Qua cuộc phỏng vấn với Luật sư Đặng Thị Liễu – Công ty Luật TNHH Trần Vũ (Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội), chúng ta đã có cái nhìn rõ ràng hơn về các quy định pháp lý, điều kiện và những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động này. Việc tuân thủ đúng quy trình pháp lý không chỉ giúp các bên liên quan bảo vệ quyền lợi hợp pháp mà còn góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh. Hy vọng rằng những chia sẻ trong bài viết sẽ giúp doanh nghiệp và cá nhân hiểu rõ hơn về lĩnh vực mua bán nợ, từ đó có những quyết định sáng suốt và phù hợp trong thực tiễn.