Những vần thơ tạc dáng hình trường tồn của Tổ quốc
Trong suốt hành trình dựng nước và giữ nước, thơ ca luôn là tiếng nói thiêng liêng của tâm hồn dân tộc: Dung dị mà sâu xa, lặng thầm nhưng mãnh liệt. Đặc biệt, trong thế kỷ XX đầy biến động, thơ ca cách mạng không chỉ phản chiếu hiện thực đau thương mà còn trở thành lời hiệu triệu, truyền ngọn lửa yêu nước, khát vọng độc lập, tự do. Những vần thơ ấy vẫn vang vọng đến hôm nay, tạc dáng hình tường tồn của non sông, đất nước, lưu giữ ký ức dân tộc và truyền cảm hứng cho các thế hệ mai sau.
Tiếng nói của tâm hồn dân tộc

Thơ ca cách mạng là tiếng nói của tâm hồn dân tộc. Ảnh minh họa: VTV
Đối với người Việt Nam, thơ không chỉ dừng lại ở lời ăn tiếng nói mà đã trở thành một phần văn hóa truyền thống của dân tộc. Thơ có mặt ngay từ buổi đầu dựng nước và theo suốt hành trình bảo vệ xây dựng và kiến thiết đất nước… Thơ cất tiếng từ những trang giấy, những câu hát dân gian, những bài hịch hào sảng, để đồng hành cùng nhân dân đi qua bóng tối, lầm than tìm đến ánh sáng cách mạng.
Đặc biệt, trong những năm tháng đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc, thơ ca cách mạng đã trở thành một mạch nguồn chảy mãnh liệt. Thơ không chỉ phản ánh nỗi đau mất nước, cảnh ngục tù nhiều hơn trường học, con người bị tước đoạt cả “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”, mà thơ còn trở thành tiếng nói của các tầng lớp nhân dân, cất lên từ trái tim của một dân tộc đang vươn mình đứng dậy.
Nếu trước kia, thơ ca thường gắn liền với nỗi niềm riêng tư, với cảnh mây trời, trăng hoa, thì kể từ khi cách mạng thổi bùng lý tưởng, thơ đã hóa thành lời hiệu triệu. Những vần thơ không chỉ để ngâm ngợi mà trở thành “vũ khí tinh thần sắc bén”, gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

Những câu thơ thể hiện tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Ảnh minh họa. VTV
Chất “thép” trong thơ không phải chỉ là khẩu hiệu, mà được tôi luyện từ máu lửa của những cuộc khởi nghĩa, từ tinh thần bất khuất của người Việt. Trong khói lửa chiến tranh, nhà thơ đồng thời là người chiến sĩ: Vừa cầm súng trên chiến trường, vừa cầm bút để lưu giữ lịch sử, khắc ghi tâm hồn dân tộc.
Có thể thấy rõ điều ấy trong thơ Tố Hữu, như ông viết trong bài “Từ ấy”:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...”.
Đó không chỉ là niềm vui riêng của một người làm thơ, mà là ánh sáng niềm tin lan tỏa khắp thế hệ. Từ những rung động ấy, hàng triệu trái tim Việt Nam đã hòa chung nhịp đập, cùng hướng về lý tưởng độc lập, tự do.

Thơ ca cách mạng là cuốn biên niên sử tinh thần. Ảnh minh họa: TCVNQĐ
Thơ ca cách mạng vì vậy trở thành cuốn biên niên sử tinh thần. Các nhà thơ đã âm thầm đồng hành cùng đất nước, cùng dân tộc bằng tác phẩm, để thi ca bay lên cùng hồn nước trong những gian lao, nhọc nhằn và cả những vinh quang.
“Đất nước đẹp vô cùng.
Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương
Luận cương đến Bác Hồ.
Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc“
Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười…
Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người…
(“Người đi tìm hình của nước” - Chế Lan Viên)
“Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!...”
(“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi)
“Đường tranh đấu không một giờ thoái bộ
Sống đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà!
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng…”
(“Trăng trối” - Tố Hữu)
“Càng đấu tranh vàng mới lại vàng ra
Có nung nấu, đỏ mới càng đỏ riết
Theo cờ gọi, những con dân đất Việt
Dâng máu xương không tiếc với sơn hà…”
(“Ngọn quốc kỳ” - Xuân Diệu)
Đặc biệt là tác phẩm “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ người Việt, được đưa vào sách giáo khoa. Tác phẩm nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, được nhà thơ viết vào mùa đông năm 1971. Bài thơ ra đời báo hiệu một thời kỳ mới của đất nước, của cách mạng Việt Nam:

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trích đọc bài thơ "Đất nước" trong chương trình "Thời cơ vàng". Ảnh: VTV
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
Đồng hành trên đường ra trận

Thơ ca đồng hành, cổ vũ đoàn quân ra trận. Ảnh minh họa: TCVNQĐ
Những năm tháng kháng chiến khốc liệt, chính những vần thơ đã đồng hành, cổ vũ các đoàn quân trên đường ra trận, quyết không lùi bước, chiến đấu, hy sinh vì hòa bình, độc lập, tự do.
Mỗi bài thơ, câu thơ ngày ấy đều hiện lên hình ảnh người chiến sĩ ra đi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, thấy cả những bà mẹ, những cô gái, những con người bình dị đã hóa anh hùng.
Như bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng - đứng - Việt - Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Bài thơ "Đồng chí" được thể hiện trong chương trình "Những câu thơ viết nên hình đất nước". TCVNQĐ
Trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Những năm tháng chống Mỹ, cả một lớp nhà thơ đã trưởng thành cùng cuộc kháng chiến. Nhà thơ Bằng Việt từng gọi đó là một thời “thơ tràn đầy sự phấn khích và say mê lý tưởng”. Câu thơ Phạm Tiến Duật “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” đến nay vẫn còn làm lòng ta nao nao, bởi trong đó có niềm tin tuổi trẻ, có lý tưởng dấn thân, có cả sự hồn nhiên và lãng mạn giữa bom đạn.
Những bài thơ ra trận không hề khô khan, không chỉ là khẩu hiệu, mà đầy ắp cảm xúc. Như nhà thơ Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với cách nói, cách nhìn lạc quan:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái...”
Chính vì thế, những vần thơ ấy không chỉ cổ vũ những người con ra trận một thời, mà còn neo lại trong lòng bạn đọc hôm nay, nhắc nhở chúng ta về một giai đoạn lịch sử đã đi qua nhưng không bao giờ lùi xa.
Nhiều tập thơ của các tác giả thời kỳ ấy, đến nay là tài sản của văn học nước nhà như “Vầng trăng quầng lửa” (1970) của Phạm Tiến Duật, “Gió Lào cát trắng” (1974) của Xuân Quỳnh, “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm, “Những gương mặt, những khoảng trời” (1973) của Bằng Việt...
Âm vang tự hào truyền dẫn đến hôm nay

Những áng thơ cách mạng bất hủ vẫn còn âm vang đến hôm nay và mai sau. Ảnh minh họa: TCVNQĐ
Thơ ca cách mạng không chỉ là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử đã qua. Những vần thơ ấy, bằng sức mạnh của nghệ thuật và lý tưởng, vẫn còn âm vang đến hôm nay.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhận định rằng, trong rất nhiều yếu tố giúp dân tộc ta tồn tại qua các gian khó có một yếu tố quan trọng đó chính là thơ ca. Khi người nghĩa sĩ đầu tiên vung gươm phá bỏ ách đô hộ, khi người chiến sĩ đầu tiên nổ phát súng, chống lại những đạo quân xâm lăng tàn ác, thơ đã có mặt cùng với họ, đã theo họ ra trận, đã khích lệ, động viên họ và cùng họ đi đến chiến thắng cuối cùng.
“Dường như trong tế bào của mỗi người Việt Nam chúng ta đều có sẵn một bài thơ thần một “Hịch tướng sĩ”, một “Bình Ngô đại cáo”, một bản Tuyên ngôn Độc lập”, nhà văn Nguyễn Bình Phương nhấn mạnh.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm – người từng sống, chiến đấu và làm thơ ngay giữa chiến trường chia sẻ: “Đối với chúng tôi, những người tham gia vào cuộc chiến tranh năm ấy thì người lính luôn là trung tâm. Đó vừa là động lực chiến đấu vừa là niềm vinh dự của chúng tôi. Ở miền Nam, trong những năm đó không có lựa chọn nào khác ngoài đấu tranh giành lại hòa bình, độc lập dân tộc. Tôi không nghĩ mình làm thơ trong quá trình đó mà tự nhiên tôi thấy làm thơ để góp thêm tiếng nói trên mặt trận. Tôi ghi sâu trong tâm trí của mình hình ảnh người đồng đội đưa lại vũ khí để tôi tiếp tục chiến đấu. Những câu thơ của tôi sau này ghi dấu lại sự biết ơn với lớp người đi trước, thật may mắn đã nhanh chóng đi vào lòng chiến sĩ, nhân dân và vang vọng đến ngày hôm nay”.
Lời kể ấy không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn là minh chứng cho sức sống bền lâu của thơ ca cách mạng. Thơ đã khắc sâu hình ảnh người lính trong tâm trí bao thế hệ, trở thành biểu tượng của lòng yêu nước và sự hy sinh. Mỗi lần nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói về hoàn cảnh sáng tác và đọc bài thơ "Đất nước" trong các chương trình, hoạt động nghệ thuật đều khiến người xem, công chúng bồi hồi.
Lịch sử đất nước được ghi chép lại bởi thế hệ các nhà thơ tài danh, tâm huyết và quả cảm… thơ ca cũng góp phần định hình vóc dáng Tổ quốc thân yêu, như một lời tri ân nhắc nhở về những thế hệ đã cống hiến, hy sinh hết mình cho Tổ quốc hôm nay.
Những vần thơ cách mạng – dù viết trong máu lửa hay giữa khói súng, dù ra đời từ chiến trường hay chốn lao tù, đều mang chung một sứ mệnh: Khắc họa dáng hình Tổ quốc. Thơ là ký ức, là tiếng lòng, là nguồn sáng soi rọi, là khúc hát tự hào nối dài từ quá khứ đến hiện tại.
Đến hôm nay, khi đất nước hòa bình và đang vững bước đi lên, thơ ca cách mạng vẫn vang vọng, vẫn truyền dẫn niềm tin và khát vọng. Những câu thơ ấy, như nhịp đập của trái tim dân tộc, sẽ còn ngân vang mãi với thời gian, để mỗi thế hệ người Việt tìm thấy trong đó niềm tự hào và trách nhiệm với non sông, gấm vóc, dựng xây Tổ quốc.
Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/nhung-van-tho-tac-dang-hinh-truong-ton-cua-to-quoc-714700.html