Những vị vua Việt viết sách

Vua triều Trần để lại nhiều tập sách về tu tập, Phật học, Thiền học. Vua triều hậu Lê vui với kinh sử, lập hội khuếch trương văn thơ.

Vua nhà Trần đọc sách, viết sách

Sau một cuộc đời chinh chiến, cuối đời, Trần Thái Tông say mê Phật pháp, tự viết các sách Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam ca, cùng nhiều sách hướng dẫn tu tập như Lục thì sám hối khoa nghi, Kim Cương Tam muội chú giải, Bình đẳng lễ sám văn... Vua nối ngôi là Trần Thánh Tông cũng để lại các tác phẩm như Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau), Thiền tông liễu ngộ.

Cũng như vua cha, vua Trần Nhân Tông ham đọc sách, ham viết sách và đã để lại nhiều tác phẩm. Nhà vua là một nhà viết sử tài ba khi đích thân biên soạn cuốn Trung hưng thực lục ghi chép chi tiết về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược, gồm 2 quyển. Tiếc rằng bộ sử này của nhà vua sau đó đã thất lạc.

Là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, Phật hoàng Trần Nhân Tông là tác giả của nhiều sách về Phật giáo như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Tăng già toái sự cùng nhiều tập thơ Thiền...

Về lịch sử của dòng tộc mình, vị vua thứ 2 của nhà Trần là Trần Thánh Tông sai soạn Hoàng tông ngọc điệp vào năm 1267.

Vua nhà hậu Lê vui với kinh sử, lập hội Tao Đàn

Sau thời kỳ giặc Minh đô hộ nước ta, một vị hào trưởng ở đất Lam Sơn nổi dậy dựng cờ khởi nghĩa. Lập thân với gươm đao như các vị anh hùng Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành nên bộ sách Lam Sơn thực lục tả về vua Lê Thái Tổ đã viết rằng:

“Nhà vua tuy gặp đời rối loạn, mà chí giữ càng bền; lẩn giấu ở núi rừng làm nghề cày cấy; tự mình vui với kinh, sử, nhất là càng chuyên tâm về các sách thao lược”.

Sau khi chiến thắng quân Minh và lên ngôi vua, năm Thuận Thiên thứ 4 (1431), Lê Thái Tổ đã trực tiếp viết bài tựa cho sách Lam Sơn thực lục do Nguyễn Trãi soạn, ký là Lam Sơn động chủ.

Hậu duệ của vua Lê Thái Tổ là vua Lê Thánh Tông, một vị vua anh minh, tài ba lỗi lạc bậc nhất trong lịch sử nước ta. Là một hoàng đế có võ công hiển hách, đồng thời, Lê Thánh Tông cũng là một tấm gương ham học, ham đọc sách nổi bật trong lịch sử.

Nhà sử học Vũ Quỳnh từng khen về khả năng đọc sách của nhà vua: “Vua võ giỏi, văn hay mà thánh học rất chăm, tay không lúc nào bỏ quyển sách. Sách gì cũng thông, văn thơ hay hơn cả các quan văn học”.

Không chỉ chăm đọc sách, vua Lê Thánh Tông còn xem cả sử liệu đương thời để tự sửa mình. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1467, vua Lê Thánh Tông sai nội quan đến Hàn lâm viện để mượn Nhật lịch (sổ biên chép việc hằng ngày của nhà vua) về cho vua xem.

Sử quan là Lê Nghĩa tâu rằng: “Đường Thái Tông đòi xem quốc sử, Phòng Huyền Linh chép sử không trung thực, đều bị đời sau chê”. Khi biết vua chỉ muốn xem nhật lịch để biết ngày trước có lỗi lầm gì mà sửa đổi, Lê Nghĩa bèn dâng nhật lịch. Vua xem xong, trả lại sử viện.

Vua Lê Thánh Tông có nói về việc đọc sách dẫn đến nhu cầu viết của mình trong lời tựa cho tập Quỳnh uyển cửu ca:

“Lúc rảnh sau muôn việc, trong khoảng nửa ngày, mắt xem rừng sách, lòng dạo vườn văn, không nghe huyên náo, lòng như hoa thơm, dục thần ít trong, ở yên cao hứng, bèn hăng hái nghĩ đến các bậc đế vương thánh triết, đến lòng cặn kẽ của những bề tôi trung lương, mới gọi giấy, bút, mực, nghiên đến bảo cho biết rằng: Tình của ta thư thái, khí tinh anh cuồn cuộn tuôn ra, lời khuôn mẫu từng từng lớp lớp, các ngươi có thể vì ta ghi lấy được không?”.

Chính vì vậy, sau khi ngự chế 9 bài thơ cận luật, vua Lê Thánh Tông đã họp các vị học sĩ, hàn lâm, tất cả là 28 người, ứng với nhị thập bát tú, lập thành một hội Tao Đàn, thay nhau cùng họa, được vài trăm bài.

“Bài nào cũng chọn chữ kỹ càng, điệu vần sang sáng, dâng lên ta xem, lòng ta rất vui, xem kỹ hai ba lần. Ta nghĩ cán cân văn chương phải là công khí, không muốn chỉ để riêng ta thưởng thức một lúc, mới sai khắc bản in để truyền bá được rộng”, vua viết tiếp trong lời tựa sách.

(*) Hai tiêu đề phụ và sapo do người biên tập đặt.

Lê Tiên Long/NXB Tổng hợp

Nguồn Znews: https://znews.vn/nhung-vi-vua-viet-viet-sach-post1504556.html