Ninh Kiều - Tốt Động, những dấu xưa oai hùng
Ngược dòng lịch sử, theo chỉ dẫn của những câu thơ trong áng thiên cổ hùng văn 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi: 'Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm', chúng tôi về chiến trường xưa ở Chương Mỹ, tìm đến những địa danh ngập tràn những chiến công oanh liệt một thời để chiêm bái, ngưỡng vọng tiền nhân mà mỗi khi nhắc lại lòng không khỏi tự hào, phấn khích. Theo mạch chỉ dẫn của hai câu thơ, trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, có hai địa danh từng làm nức lòng thiên hạ và vẫn còn được nhắc mãi tới muôn đời: Ninh Kiều (Chúc Động) và Tốt Động (còn gọi là Tụy Động).

Đình làng Tốt Động
Ninh Kiều - Tốt Động, chiến công vang vọng núi sông
Ninh Kiều và Tốt Động là hai địa danh ở huyện Chương Mỹ ngày nay. Ninh Kiều là cây cầu bắc qua sông Ninh Giang (sông Đáy) ở dưới chân núi Ninh Sơn thuộc thị trấn Chúc Sơn (xưa còn có tên là Chúc Động nên trận thắng Ninh Kiều còn có tên gọi là chiến thắng Chúc Động). Tốt Động có tên Nôm là làng Rét, một thôn ở xã Tốt Động, cách thị trấn Chúc Sơn khoảng bảy cây số.
Theo sử sách ghi lại, vào khoảng nửa cuối năm 1426, quân Minh liên tiếp bị thất bại. Thế và lực trên chiến trường nghiêng hẳn về nghĩa quân Lam Sơn. Nghĩa quân của Lê Lợi liên tiếp vây thành và bức hàng làm cho đội quân xâm lược nhà Minh rơi vào thế bị chia cắt, không thể ứng cứu cho nhau. Tình thế ấy chúng buộc phải rút quân về cố thủ trong thành Đông Quan (Hà Nội) và xin cứu viện.
Tháng 10 năm 1426, vua Minh đã phong cho Thái tử hoài vương hầu Vương Thông chức Chinh Di tướng quân và cho mang năm vạn quân và năm ngàn con ngựa cùng Thượng thư Bộ binh Trần Hiệp và Tham tướng Mã Anh sang Đại Việt ứng cứu.
Sau khi đến Đông Quan, Vương Thông đã lên kế hoạch tiêu diệt lực lượng chủ lực của nghĩa quân Lam Sơn đang hoạt động xung quanh thành, đặc biệt là ở căn cứ Ninh Kiều ở phía Tây Nam nhằm giành thế chủ động và khai thông con đường trọng yếu từ Đông Quan vào phía Nam để tiến đánh cơ quan đầu não nghĩa quân Lam Sơn hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi đứng đầu.
Thực hiện kế hoạch ấy, Vương Thông đã thay một loạt tướng bại trận và thành lập bộ chỉ huy mới cùng Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính, Trần Hiệp, Lý Lượng... và hơn một trăm ngàn quân “dài đến mười dặm, mũ giáp lòa trời, cờ tàn rợp nội” (Lam Sơn thực lục, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 2006). Đồng thời chia quân thành ba đạo quân: Đạo thứ nhất tiến đánh và chiếm đóng ở Cổ Sở (đạo này do Vương Thông chỉ huy, đi từ thành Đông Quan qua Cầy Giấy đến chiếm đóng ở bến đò Cổ Sở trên sông Đáy, tức làng Giá thuộc huyện Hoài Đức), đạo thứ hai tiến đánh khu vực cầu Thanh Oai (đạo này do Mã Kỳ, Sơn Thọ đưa quân theo cầu Nhân Mục tiến ra Thanh Oai), đạo thứ ba tiến đánh khu vực cầu Sa Đôi (đạo này do Phương Chính, Lý An chỉ huy đi qua cầu Yên Quyết tiến ra chiếm đóng cầu Sa Đôi, khu vực giáp ranh giữa Mễ Trì và Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm).
Đứng trước tình hình này, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn chủ trương tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu, giữ vững thế trận, bẻ gãy các mũi tiến công nhằm phá sản kế hoạch phản công của giặc. Theo đó, nghĩa quân Lam Sơn một mặt chia nhau trấn giữ những nơi hiểm yếu; một mặt tổ chức nhiều trận đánh ở các nơi xung yếu của giặc để tiêu hao lực lượng.
Theo kế sách ấy, quân Lam Sơn đã tiến hành các trận đánh ở Cổ Lãm (Phú Lãm, Phú Cường, Văn Khê; xưa của Thanh Oai nay thuộc quận Hà Đông), Tam La (khu vực Ba La, quận Hà Đông) khiến quân Minh phải bỏ căn cứ Sa Đôi rút về thành Đông Quan. Đặc biệt, với sự chủ động, mưu trí, sáng ngày 6 tháng 11 năm 1426, một bộ phận của nghĩa quân Lam Sơn do tướng Lý Triện chỉ huy đã tập kích vào doanh trại quân Minh ở Cổ Sở để khiêu khích và giả thua nhằm nhử địch ra khỏi căn cứ.
Cùng lúc quân ta cho rút lui một phần về Cao Bộ (tên Nôm là làng Bụa, xã Trung Hòa, huyện Chương Mỹ) để nghi binh và bày binh bố trận ở Tốt Động, Chúc Động. Các tướng Đinh Lễ và Lý Triện đã dựa vào địa hình hiểm trở trên trục đường từ Ninh Kiều đến Cao Bộ để thiết lập hai trận địa mai phục ở Tốt Động và Chúc Động.
Ở căn cứ Cao Bộ, nghĩa quân chia người chốt giữ các vị trí hiểm yếu, còn lại quân chủ lực, gồm cả bộ binh và tượng binh đều cho đi mai phục ở Tốt Động, Chúc Động. Tướng quân Lam Sơn khéo lợi dụng địa thế của xóm làng và bờ sông Bùi, đầm Rót ở phía Tây của Tốt Động để ém quân, nhằm chặn đầu, khóa đuôi con đường tiến quân, lui binh và đánh tạt sườn vào đội hình quân Minh nhằm dồn chúng vào cánh đồng trũng nhất ở Tốt Động để tiêu diệt.
Cùng thế trận ấy, ở Chúc Động, nghĩa quân Lam Sơn cũng lợi dụng địa hình núi, đồi, sông, suối, rừng cây để bố trí quân mai phục, đặc biệt là ở Ninh Kiều. Nghĩa quân cũng đã tính toán cẩn thận đường rút chạy của quân Minh để bố trí trận địa mai phục. Trong khi đó, với thắng lợi ban đầu ở Cổ Sở, đạo quân của Vương Thông tưởng thừa thắng bèn huy động lực lượng đuổi theo.
Khi đến Ninh Kiều thấy không có đối phương, lều trại bị đốt cháy. Sau khi dò la tin tức, biết được Lý Triện và Đỗ Bí đã rút quân về đóng giữ ở Cao Bộ, Vương Thông bàn với các tướng Minh chia lực lượng thành hai cánh quân. Một cánh quân chính binh do Vương Thông trực tiếp chỉ huy theo đường cái từ Ninh Kiều qua Chúc Động, Tốt Động đánh thẳng vào mặt phía Đông của Cao Bộ, đồng thời nghi binh để thu hút sự chú ý của nghĩa quân Lam Sơn.
Đạo kỳ binh theo đường nhỏ từ Chúc Động đi vòng lên mặt Bắc của Cao Bộ, đem theo súng lớn, định đặt súng bắn vào phía sau quân Lam Sơn khi quân ta phải đối trận với cánh quân chính binh của Vương Thông. Hai cánh quân phối hợp với nhau đánh ép nghĩa quân Lam Sơn ở Cao Bộ từ hai phía như một gọng kìm siết chặt. Bọn chúng dự tính kỳ binh đánh vào phía sau, chính binh vượt sông đánh vào phía trước. Chúng thống nhất hiệu lệnh bằng tiếng pháo: khi nghe tiếng súng pháo vang lên, các mũi quân sẽ đồng loạt đánh khép kín để tiêu diệt nghĩa quân Lam Sơn.
Theo kế hoạch, sáng ngày 7 tháng 11 năm 1426, chúng tiến quân về Cao Bộ, vượt sông Đáy qua đường Tốt Động. Do bắt được thám báo của giặc nên ta biết được kế hoạch của Vương Thông. Đinh Lễ và Lý Triện đã tương kế tựu kế, sử dụng chính kế hoạch của quân Minh để phản công. Hai tướng ra lệnh cho nghĩa quân nằm yên khi nghe thấy tiếng súng nổ, nhằm đánh lừa đối phương. Khi nổ pháo lệnh, quân Minh thấy không có sự kháng cự của đối phương nên tưởng không có phục binh. Chúng vội chớp thời cơ theo đường tắt dốc toàn bộ lực lượng tiến sâu vào địa bàn Tốt Động và Chúc Động.
Đúng như kế hoạch đã định, nghĩa quân Lam Sơn đã lừa cho quân Minh lọt vào trận địa mai phục, sau đó chặn đánh quyết liệt tại Tốt Động và chặn đường rút chạy ở phía sau. Quân ta đánh vào bên sườn địch, chia cắt đội hình giặc.
Quân Minh tràn ra cánh đồng tháo chạy. Cánh đồng Tốt Động lầy lội, cỏ lác mọc um tùm, quân Minh đến đây bị ùn ứ, không xoay xở được. Nghĩa quân Lam Sơn khi ấy mặc sức tiêu diệt. Quân Minh phải cố gắng tháo chạy sang cánh đồng Chúc Động hòng thoát ra sông Ninh Giang để về Đông Quan. Và, chúng tiếp tục rơi đúng vào thế trận ta bày sẵn.
Thấy quân Minh tháo chạy, quân dân ta từ các vị trí mai phục nhất loạt xông lên tập kích đội quân thất trận của Vương Thông. Nghĩa quân chặt đứt cầu Ninh Kiều, chặn đường rút quân qua Ninh Giang. Quân Minh phần bị quân ta truy sát, phần bị rơi xuống sông, chết đuối nhiều vô kể và bị dồn đống lại nên rơi vào tình cảnh hỗn loạn.
Như vậy, trận địa mai phục ở Tốt Động nhằm đánh vào tiền quân và trận địa mai phục ở Chúc Động nhằm đánh vào hậu quân và chặn đường rút lui của hai cánh quân khi chúng bị thất bại và bỏ chạy về Đông Quan. Kết cục, vùng chiến sự ở phía Tây Nam thành Đông Quan đã kết thúc vào ngày 10 tháng 11 năm 1426.
Trong hai trận mai phục ở Tốt Động, Chúc Động, nghĩa quân Lam Sơn đã kết hợp với dân binh tiêu diệt trên năm mươi ngàn tên giặc và bắt sống hàng nghìn tù binh. Tổng binh Vương Thông bị trúng một mũi tên vào sườn và bị thương nặng. Tham tán quân vụ Trần Hiệp bị trúng giáo nên cũng trọng thương và ngã ngựa chết. Nội quan Lý Lượng bỏ mạng tại trận. Nghĩa quân Lam Sơn đã thu được rất nhiều lương thực, thực phẩm, ngựa, xe, vũ khí...
Chiến thắng ở Tốt Động và Chúc Động đã được Nguyễn Trãi viết lại như sau: “…Cùng với bọn Triện hợp sức đánh mạnh ở các xứ Tốt Động và Ninh Kiều, cả phá được giặc, chiếm được Trần Hiệp và Lý Lượng. Giặc bị chém hơn năm vạn tên, bị chết đuối rất nhiều, bị bắt sống hơn trăm tên. (Ta) bắt được khí giới, ngựa, vàng bạc, của cải, quân tư xe cộ không biết bao nhiêu mà kể. Bọn tướng giặc là Vương Thông, Mã Anh, Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ chạy thoát được vào thành Đông Đô, cố thủ để chờ chết, Bọn Triện, Lễ, Bị, Xí, Khả thừa thắng tiến thẳng đến sát thành để vây” (Nguyễn Trãi toàn tập, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1998).
Có thể nói, chiến thắng ở Ninh Kiều và Tốt Động đã đập tan ý đồ xoay chuyển cục diện chiến trường, giành lại thế chủ động của Vương Thông và làm cho giặc Minh phải rút vào thế phòng thủ và phải xin viện binh cứu trợ. Với số quân bằng một phần mười của kẻ thù (khoảng một vạn người, kể cả dân binh), chiến thắng ở Ninh Kiều và Tốt động thực sự là một mốc son đánh dấu sự trưởng thành về nghệ thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn, đặc biệt là đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Nguyễn Trãi: “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/ Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều” (Theo Văn học 10, tập 1, Ban Khoa học Tự nhiên và Ban Khoa học Tự nhiên - Kỹ thuật, Nhà xuất bản Giáo dục, 1995).
Từ những chiến thắng này nghĩa quân Lam sơn đã tạo ra thế và lực mới để tiến tới đánh bại hoàn toàn quân Minh, giải phóng đất nước. Chiến thắng ấy cũng đã tạo thành một phần cảm hứng không nhỏ để đại thi hào Nguyễn Trãi hào sảng viết nên bản thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
(Theo Văn học 10, tập một, Ban Khoa học Tự nhiên và
Ban Khoa học Tự nhiên – Kỹ thuật, Nhà xuất bản Giáo Dục, 1995)
Tốt Động, tên đất tên người những dấu xưa oai hùng
Tốt Động, chiến trường năm xưa nay đã có biết bao đổi thay. Đường đi lối lại ngang dọc chứ không còn độc đạo. Thị trấn Chúc Sơn, phố xá nhộn nhịp, nhà cửa mọc lên san sát, vòng quanh những quả đồi, trái núi khiến người ta không nhận ra dấu hiệu chuyển tiếp địa hình từ đồng bằng sang dần đồi núi của vùng đất bán sơn địa. Cảnh quan như thế khiến phố huyện Chúc Sơn hiện lên trong tầm mắt rất đẹp.
Chỉ một loáng xe chạy, chúng tôi đã có mặt ở Tốt Động. Dừng chân bên đình làng, ngắm nhìn hồ nước mênh mông cùng đền đài cổ kính soi bóng lung linh trên mặt nước, chúng tôi không khỏi lâng lâng bởi phong cảnh làng quê thật bình yên, hữu tình. Trước mặt chúng tôi là mái đình duyên dáng, cổ kính mấy trăm năm lặng lẽ, rêu phong, trầm mặc dưới những tán cây cổ thụ. Phía xa, cánh đồng một thời từng là trận địa oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn không còn lau lách, lầy lội mà đang biêng biếc lúa xanh.
Đoạn sông Ninh Kiều kéo dài tới tận Ba Thá, huyện Mỹ Đức, thủa xưa mênh mang sóng nước là vậy nay chỉ còn lại khúc đầm Ruột Gà và mấy vũng nước nông choèn giữa những lô nhô cửa nhà của xóm làng yên ả. Những Đồng Gàn (nơi bắn pháo hiệu của nghĩa quân Lam Sơn), gò Trống, gò Kèn (nơi phát hiệu lệnh thúc quân), gò Đồng Giả (nơi nghi binh đại bản doanh để nhử quân giặc), đồng Vỡ (nơi quân giặc bị vỡ trận), đồng Gạo (nơi cất giữ lương thảo thu được của giặc), bãi Mả Dù (nơi chôn thây quận giặc trong trận Ninh Kiều), bãi Ma Hè (nơi chôn quân giặc chết trận Tốt Động), đồng Mồ (nơi nhân dân đã thu dọn hài cốt của giặc Minh đem chôn ở gò cao sau khi kết thúc chiến trận), Đồng Án (nơi đắp đất án ngữ không cho giặc Minh chạy vào xóm Lèo, xóm Bến), gò Đồng Kiếu (nơi đặt đài quan sát của nghĩa quân Lam Sơn), Đồng Trê - Trũng Hẻm (cánh đồng sâu nhất trận địa, nghĩa quân Lam Sơn dồn giặc Minh xuống đây để đánh.
Về sau cá trê cá hẻm ở đây sinh sôi phát triển rất nhiều, rúc cả vào đầu lâu giặc để làm tổ), Hóc Năng (khúc đầm còn gọi là suối Ninh Kiều, nhân dân cắm chặng đơm cá, quân Minh chết trôi xuống mắc chặng khiến tắc nước không chảy được)… chỉ còn lại là những câu chuyện trong ký ức truyền đời của người dân.
Về Tốt Động, nếu không được nghe kể mà chỉ mê mải ngắm nhìn làng xóm thơ mộng giữa bao la cánh đồng xanh lúa như thế người ta cứ ngỡ chiến tranh dường như chưa biết đến chốn này.

Đài tưởng niệm trước đình làng Tốt Động
Kể từ sau chiến thắng Tốt Động, Xuýt soát sáu trăm năm đã qua, đồng đất Tốt Động nơi nào cũng chứa đựng những dấu tích lịch sử oai hùng cùng với biết bao huyền thoại. Dòng sông Ninh Kiều có thể đổi thay nhưng âm vang về những trận chiến oanh liệt không hề thay đổi. Nó vẫn được truyền kể từ đời này sang đời khác và sống mãi trong tâm thức các thế hệ cháu con.
Chẳng những thế, trên vùng đất Tốt Động, để giáo dục lòng yêu đất nước và khắc ghi công lao của những người anh hùng dân tộc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên vùng đất quê hương mình, người dân Tốt Động đã dựng đình, xây đền, làm quán và suy tôn những danh tướng Lam Sơn làm thành hoàng làng và truyền đời thờ phụng.
Thì đấy, nơi tôi đang đứng là đình Tốt Động, nơi thờ hai danh tướng Lê Ngân và Đỗ Bí. Hai danh tướng không những thờ trong đình mà còn được dân làng dựng và thờ ở cả ngoài quán: quán Bến thờ Đỗ Bí, quán Đừn thờ Lê Ngân.
Và làng bên, Yên Duyệt (cũng thuộc xã Tốt Động) nhân dân cũng dựng đình thờ danh tướng Lý Triện. Tam vị danh tướng thờ ở Tốt Động đều là những chỉ huy của nghĩa quân Lam Sơn tham gia cuộc khởi nghĩa từ những ngày đầu.
Ba vị tướng công ấy cũng là những người trực tiếp chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn trên chiến trường Tốt Động. Ngoài đình và quán, dân làng Tốt Động còn xây dựng Đài tưởng niệm, cầu Chiến Thắng trên hồ nước ở trước đình để tri ân và tôn vinh tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn. Đặc biệt, với tấm lòng nhân nghĩa, ngay sau ngày đại thắng quân Minh, dân làng Tốt Động còn làm “việc nghĩa chủng” với những kẻ bại vong.
Theo sách chỉ của Lê Lợi, sau trận chiến, nhân dân đã thu dọn hài cốt của giặc Minh chết trận trên cánh đồng và dòng sông Ninh Kiều đem về chôn ở gò Cao và xây tường bao xung quanh, hiện trong dinh đồng Mồ vẫn còn dựng tấm bia ghi rõ việc đóng góp của dân làng làm nghĩa chủng. Hằng năm, vào ngày 24 tháng Chạp, ở Tốt Động, dân làng tổ chức lễ tế “nghĩa chủng” cho các vong hồn; khi giáp hạt, tháng tư âm lịch, người ta cũng lại làm lễ “cúng cháo cầu” tại đồng Mồ...
Hiện nay trong Cầu Đồng Gạo vẫn còn tấm bia của Bộ Lại Đặng Tĩnh Trai soạn vào năm Bính Dần niên hiệu Tự Đức 19, năm 1866, nói về tấm lòng bao dung, nhân hậu của người nước Nam nói chung và dân làng Tốt Động nói riêng. Tấm bia có đoạn ghi rằng: “Ta rằng hỡi ôi! Số người thác ở đây trăm đời sau vẫn là ma khách. Nay các ngươi đều được về đây, thi thể các ngươi thoát khỏi cảnh ngâm thây đáy nước, dãi nắng bãi cỏ hoang, ăn gió uống sương hồn phách chập chờn như đom đóm...”. Bài văn khấn cũng có đoạn viết: “Hàng năm đến tế/ Một cõi thê lương/ Một gò cao vút/ Ai tựa ai nương/ Rượu cùng một chén/ Giò lợn một chân/ Các hồn chung hưởng/ Không phân sang hèn/ Cúi xin thưởng hưởng” (theo bản dịch của Trương Đức Quả).
Chúng tôi dừng chân bên ngôi đình Tốt Động. Một ngôi đình đẹp đang trầm mặc theo thời gian dưới những tán cây cổ thụ nhìn rất cổ kính. Theo thần phả hiện đang lưu giữ thì được biết đình Tốt Động được xây dựng vào khoảng thế kỷ XV, sau cuộc kháng chiến quân Minh thành công. Trải qua thời gian, đình cũng đã nhiều lần tu sửa.
Ngắm nhìn ngôi đình hiện nay người ta thấy kiến trúc của đình mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn. Nhìn tổng thể, đình nằm trên một khu đất cao ráo, thoáng đãng, đẹp đẽ ở phía đầu làng. Đình được thiết kế theo hướng Bắc - Đông Bắc, có quy mô bề thế, khang trang. Nhìn từ ngoài vào, trước mặt đình là hồ nước, giữa hồ có đài tưởng nhớ các tướng sĩ Lam Sơn.
Nối đài tưởng nhớ với sân cỏ trước Nghi môn có cầu chiến thắng dẫn ra giữa hồ rất đẹp. Trước Nghi môn là sân cỏ và những cây cổ thụ tạo nên một cảnh quan rất thơ mộng. Nghi môn bề thế được trang trí rất đẹp, phía dưới là câu đối chữ Hán, trên câu đối có đắp giả đèn lồng và các hình hoa văn trang trí, phía trên cùng đắp bốn con chim, đầu nhô ra bốn góc, chụm đuôi lại với nhau, vươn lên bầu trời bao la. Nối nghi môn với hai cổng phụ ở hai phía có bức tường gạch thấp. Bức tường ngăn cách sân cỏ với sân đình lát gạch bên trong. Từ sân cỏ lên sân gạch phải bước qua năm bậc gạch ở trước Nghi môn. Đi qua khoảng sân khá rộng lát gạch là vào đến đình.
Đình được kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Phía ngoài là tòa Đại bái bên trong là tòa Hậu cung. Đại bái và Hậu cung được làm bằng các loại gỗ tứ thiết, kèo nóc làm theo kiểu chồng rường truyền thống. Đại bái có ba gian hai chái lớn, các góc có mái đao uốn lượn bay bổng. Hậu cung là tòa nhà dọc liền kề với gian giữa đại bái đình. Hậu cung có bốn gian một dĩ làm theo lối tiền đao hậu đốc. Hậu cung được ngăn làm đôi để tạo thành trung cung, hậu cung. Trung cung được trang trí những bức chạm tứ linh, tứ quý.
Hậu cung chủ yếu bào trơn đóng bén. Về điêu khắc trong đình được thể hiện trên các bức cốn, đề tài trang trí chủ yếu là “Ngư long hí thủy”. Ngoài ra ở các đầu dư, cửa võng… có chạm hình rồng và một số họa tiết tùng, cúc, trúc, mai. Trong đình, hệ thống sạp đã được thay bằng các bệ kè đá xanh, lát gạch, cao khoảng nửa mét. Ngoài ra, ở hai bên sân đình còn có hai dãy nhà tả và hữu mạc, mỗi dãy nhà chín gian. Trong đình còn giữ được nhiều đồ thờ quý hiếm.
Với những giá trị vật chất và ý nghĩa lịch sử, đình làng Tốt Động đã được công nhận là di tích cấp lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1985. Hàng năm, sau Tết Nguyên đán, vào ngày mùng Bảy tháng Giêng dân làng mở hội long trọng để tưởng nhớ nhị vị thành hoàng Lê Ngân và Đỗ Bí. Hội làng thường được tổ chức trong ba ngày với nghi thức lễ tế, rước kiệu. Ngoài ra phần nghi lễ còn có phần hội với các trò diễn xướng dân gian mang tinh thần thượng võ như múa gậy, đấu vật rất vui và nổi tiếng cả vùng như lời truyền tụng: “Cổ truyền mồng bảy tháng Giêng/ Tốt Động vào đám trống chiêng nghinh thần”.

Lăng Lý Triện ở làng Yên Duyệt (Tốt Động)
Đình Tốt Động thờ danh tướng Lê Ngân và Đỗ Bí. Theo sử sách ghi chép lại, Lê Ngân là người ở Đàm Di thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Ông đi theo Lê Lợi ngay từ những ngày đầu của khởi nghĩa và có công to lớn trong các chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn ở Bồ Đằng, Khả Lưu, Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Việt, Đông Đô, Tốt Động, Chúc Động…
Cũng bởi có nhiều công lao nên sau đại thắng quân Minh, năm 1429, khi Lê Lợi bình công ban thưởng và khắc biển ghi tên các bậc khai quốc công thần, Lê Ngân được xếp hàng thứ tư, tước Á thượng hầu.
Đến năm 1434, ông lại được phong hàm tư khấu, chức Đô tổng quản Hành quân Bắc Đạo. Ông cùng với Đại tư đồ Lê Sát nắm quyền phụ chính cho vua Lê Thái Tông.
Năm 1437, khi Lê Sát bị bãi chức, ông được phong làm Tể tướng, rồi nhập nội Đại đô đốc, Phiêu kỵ thượng tướng quân, Đặc tiến Khai phủ Nghi Đồng Tam Ty, Thượng trụ quốc, tước Thượng hầu.
Cùng được hưởng ân sủng này con gái của Lê Ngân là Chiêu nghi Lê Nhật Lệ cũng được sắc phong làm Huệ phi của vua Lê Thái Tông.
Như vậy, xét về thứ bậc gia đình, ông còn là nhạc phụ của vua. Tuy nhiên, vinh quang chưa được nửa năm, đến tháng 11 năm 1437, những kẻ ghen ghét Lê Ngân đã cáo giác ông thờ phật Quan âm trong nhà (thời đó triều đình độc tôn Nho giáo, các tôn giáo khác bị bài xích). Sau đó ông bị buộc uống thuốc độc chết tại nhà, gia sản bị tịch thu. Huệ phi bị giáng là Tu dung (hàng thấp nhất của vợ vua).
Mười sáu năm sau, năm 1453, nhân kỳ đại xá, vua Lê Nhân Tông mới cấp trả cho con Lê Ngân một trăm mẫu ruộng và đến năm 1484, vua Lê Thánh Tông truy tặng ông là Thái phó Hoằng quốc công.
Ghi nhớ công lao của ông, nhân dân làng Tốt Động đã tôn ông làm thành hoàng và thờ phụng ngài tại quán Đừn (trên một gò cao, bên bờ hữu sông Bùi, thuộc địa phận thôn Liêm Khê) và đình Tốt Động (tức là làng Tụy Động, tên Nôm là làng Rét).
Vị thành hoàng thứ hai của làng Tốt Động là Đỗ Bí. Ông người làng Cung Hoàng nay là Cung Điền thuộc huyện Nông Cống (Thanh Hóa). Cũng như Lê Ngân, ông tìm về Lam Sơn tụ nghĩa từ những ngày đầu với vị trí của một nghĩa binh bình thường và ông trưởng thành trong kháng chiến trở thành một vì tướng tài.
Tên tuổi của Đỗ Bí nổi lên từ khi nghĩa quân Lam Sơn tấn công ồ ạt vào Nghệ An. Tài năng quân sự của ông được thể hiện qua trận đánh ở Khả Lưu. Ông đã chỉ huy nghĩa quân chặn đứng cuộc hành quân của giặc Minh, không cho chúng chiếm lại miền Trà Lân - một vị trí chiến lược rất quan trọng, án ngữ huyết mạch giao thông phía Tây Nghệ An.
Đặc biệt, khi kéo quân ra thành Đông Quan, Đỗ Bí là một trong những người chỉ huy xuất sắc của đạo quân thứ nhất; tháng 9 năm 1426, ông trực tiếp chỉ huy và làm nên các chiến thắng ở Ninh Kiều, Nhân Mục, Cổ Lãm.
Tuy nhiên, tháng 2 năm 1427, Phương Chính đem quân từ thành Đông Quan đánh tập kích trại của Đỗ Bí và Lý Triện ở Cảo Động (Từ Liêm). Bấy giờ, quân ta đang mải bao vây giặc ở thành Đông Quan nên tương quan lực lượng hai bên ở Cảo Động không tương xứng, có lợi cho giặc, nên Đỗ Bí bị bắt, còn Lý Triện bị thương, chạy về đến Tốt Động thì hy sinh.
Một thời gian sau, giặc Minh rút về, Đỗ Bí được trao trả. Sau đó ông tiếp tục phục vụ triều đình nhà Lê. Sau khi ông mất, nhân dân làng Tốt Động đã lập đền thờ ông và suy tôn làm thành hoàng làng, thờ cùng Lê Ngân trong đình làng.
Trên vùng đất Tốt Động, ngoài lễ hội ở làng Rét còn có lễ hội làng Yên Duyệt. Theo tục làng, lễ hội cũng được tổ chức ba ngày, từ ngày mùng Mười đến ngày Mười hai tháng Hai để tưởng nhớ tướng công Lý Triện. Đây cũng là danh tướng thứ ba của nghĩa quân Lam Sơn được thờ ở Tốt Động.
Theo “Đại Việt thông sử”, Lý Triện là người làng Bái Đô, huyện Lôi Dương, nay thuộc huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Ông cũng là bậc công thần khai quốc của nhà Lê. Lý Triện đi theo Lê Lợi từ những ngày đầu và lập nhiều chiến thắng ở Thanh Hóa, Nghệ An, đặc biệt là trận Tốt Động - Chúc Động. Ông đã cùng Đinh Lễ, Nguyễn Xí phá tan quân Minh do tổng binh Vương Thông chỉ huy. Theo đánh giá của Ngô Sĩ Liên thì Lý Triện và Đinh Lễ là hai vị tướng giỏi nhất của nghĩa quân Lam Sơn. Bởi thế Lý Triện được vua Lê ban quốc tính nên sử cũ cũng thường chép là Lê Triện.
Những cống hiến của Lý Triện cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, vào năm Canh Tý (1420), bấy giờ tướng giặc là Lý Bân và Phương Chính cho quân băng qua đất Quỳ Châu (nay thuộc tỉnh Nghệ An) để rồi từ đó vòng lên đánh vào lực lượng của Lam Sơn khi ấy đang đóng tại Mường Thôi. Lý Triện đã cùng các tướng Nguyễn Lý và Phạm Vấn, đem quân cản bước tiến của quân Minh để cho Lê Lợi có đủ thời gian bố trí một trận địa mai phục tại Bồ Mộng. Sau chiến thắng này, Lý Triện đã được Lê Lợi đánh giá rất cao.
Thứ hai, vào năm Nhâm Dần (1422), nghĩa quân Lam Sơn đã đập tan cuộc tấn công bất ngờ và hiểm hóc của Ai Lao để rút quân về đóng tại Quan Gia. Giặc Minh và Ai Lao lại kết hợp với nhau đánh vào Quan Gia. Tình thế này khiến Lê Lợi phải cho rút quân về Khôi Huyện. Thấy thế giặc lại truy đuổi nghĩa quân của Lê Lợi về tận Khôi Huyện. Tại đây, trong một cuộc ác chiến, Lý Triện và các tướng Lê Lĩnh, Phạm Vấn lập được công lớn: chém chết tướng giặc là Phùng Quý cùng hơn một ngàn tên giặc, bắt được hơn một trăm con ngựa, khiến liên quân phải tháo chạy.
Thứ ba, vào đầu năm Ất Tỵ (1425), khi ấy Lê Lợi giao cho Đinh Lễ đánh Diễn Châu. Nhưng ngay sau khi Đinh Lễ xuất quân, Lê Lợi lại sai Lý Triện lên đường tiếp ứng. Lần này Lý Triện không những giúp cho Đinh Lễ mà còn chủ động đem quân ra vây hãm thành Tây Đô.
Thứ tư, vào mùa Thu năm Bính Ngọ (1426), Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn sai các tướng đem một vạn quân, chia làm ba đạo luồn sâu vào khu vực quân Minh chiếm đóng để hoạt động và dọn đường cho cuộc tấn công của Lam Sơn sau này.
Đặc biệt, trong trận Tốt Động - Chúc Động, từ ngày 7 tháng 11 năm 1426, ông đã cùng các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Phạm Văn Xảo… chỉ huy chiến đấu và lập nên những chiến công hiển hách. Nghĩa quân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc phản công của Vương Thông, với trên sáu vạn quân địch bị tiêu diệt, Thượng thư Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng phải bỏ mạng, Vương Thông bị thương nặng tại trận.
Tuy nhiên, tháng 2 năm 1427, giặc bất ngờ tập kích trại quân của Lý Triện và Đỗ Bí ở Từ Liêm. Nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm, do ta mải vây thành Đông Quan nên lực lượng của quân Minh ở Cảo Động nhiều hơn quân ta, không cân sức nên Đỗ Bí bị bắt, Lý Triện bị thương nặng. Lý Triện quyết không rơi vào tay kẻ thù, ông cố phi ngựa chạy về theo đường Lai Kinh đến bờ sông Giang Loan (nay là sông Bùi) thì ngã xuống.
Để tưởng nhớ công lao đánh giặc cứu nước của ông, nhân dân làng Yên Duyệt đã xây lăng mộ bên bờ sông Bùi, dựng đình thờ ở làng để thờ phụng ông.
Năm 1428, ông được truy tặng chức Nhập nội tư mã.
Năm 1460, ông lại được truy tặng làm hữu tướng quốc. Năm 1484, Lê Thánh Tông tặng ông tước thái bảo, Kỳ quận công và sau đó là Tây Kỳ vương.
Quả thực, không quá khi bảo rằng Tốt Động hôm nay giống như một bảo tàng lịch sử thu nhỏ về cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Đúng thế về Tốt Động lần này ngắm nhìn những di tích, lắng nghe chuyện kể về những trận đánh oanh liệt ngày xưa, chúng tôi không khỏi trào dâng những xúc động, tự hào.
Tiếc rằng, sự đầu tư và phát triển khu di tích lịch sử này còn chưa xứng với tầm vóc của những giá trị lịch sử văn hóa hào hùng của ông cha đã từng diễn ra ở nơi này!
Hy vọng trong không xa, cụm di tích lịch sử oai hùng này sẽ quan tâm để trở thành một trong những nơi về nguồn để con cháu khắp nơi biết đến, tìm về để tự hào và chiêm bái.
Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/ninh-kieu-tot-dong-nhung-dau-xua-oai-hung-a28098.html