Nobel kinh tế trao cho bộ ba nghiên cứu các cuộc khủng hoảng tài chính
Cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) - Ben Bernanke, Douglas Diamond và Philip Dybvig đã được trao giải Nobel kinh tế hôm 10-10 cho công trình nghiên cứu về các ngân hàng và khủng hoảng tài chính.
Ba nhà kinh tế học Mỹ đã được Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công nhận vì công trình của họ vào đầu những năm 1980 đã cung cấp nền tảng cho sự hiểu biết hiện đại về lý do tại sao các ngân hàng cần thiết, các lỗ hổng chính của chúng và sự sụp đổ của chúng có thể thúc đẩy các cuộc khủng hoảng tài chính như thế nào.
Bernanke, người lãnh đạo ngân hàng trung ương Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, đã nhận được giải thưởng cho nghiên cứu của mình về cuộc đại suy thoái. Công trình nghiên cứu của ông cho thấy các đợt điều hành ngân hàng là nguyên nhân quyết định khiến cuộc khủng hoảng trở nên nghiêm trọng và kéo dài.
Nhà kinh tế John Hassler, người phục vụ trong ủy ban Nobel, cho biết tại một cuộc họp báo: “Mọi người đã thấy rằng các ngân hàng thất bại, nhưng người ta nghĩ rằng đó là hệ quả của cuộc khủng hoảng hơn là một nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. Giờ đây các quan điểm của Bernanke đã trở thành quan điểm khôn ngoan thông thường".
Nghiên cứu của Diamond và Dybvig đã chỉ ra rằng các ngân hàng giúp giải quyết căng thẳng giữa người đi vay và người gửi tiết kiệm, những người có mục tiêu có thể khác nhau. Người đi vay muốn biết họ sẽ không phải trả nợ quá sớm, trong khi người tiết kiệm muốn tiếp cận nhanh với nguồn tiền trong trường hợp khẩn cấp.
Mặc dù vai trò trung gian này rất quan trọng, nhưng nó cũng khiến những người cho vay dễ tháo chạy nếu những tin đồn về tình hình tài chính của các ngân hàng bắt đầu lan truyền, Diamond và Dybvig nhận thấy.
Diamond lưu ý rằng việc lãi suất tăng nhanh trên khắp thế giới đang gây ra bất ổn thị trường, chỉ ra sự hỗn loạn gần đây ở Vương quốc Anh.
Tuy nhiên, ông tin rằng hệ thống này có khả năng phục hồi tốt hơn trước đây nhờ những bài học khó khăn thu thập được từ vụ khủng hoảng năm 2008.
Diamond nói: “Những kỷ niệm gần đây về cuộc khủng hoảng đó và những cải tiến trong chính sách quản lý trên toàn thế giới đã giúp hệ thống ít bị tổn thương hơn nhiều”.
Bernanke, người phụ trách Fed từ năm 2006 đến năm 2014, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý những ảnh hưởng trong giai đoạn đó.
Trong khi Bernanke giữ chức chủ tịch, ngân hàng trung ương đã đi tiên phong trong chương trình nới lỏng định lượng, mua tài sản để giúp kích thích tăng trưởng kinh tế.
Ông cũng cải thiện giao tiếp với công chúng về suy nghĩ và ý định của ngân hàng trung ương. Những cách tiếp cận này hiện là một phần tiêu chuẩn trong sổ sách của Fed nhằm ổn định thị trường và hỗ trợ nền kinh tế.
Tuy nhiên, sự thất bại của Fed và Bộ Tài chính Hoa Kỳ trong việc cứu Lehman Brothers khỏi sự sụp đổ đã trở thành chủ đề của cuộc tranh luận quan trọng. Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư này vào tháng 9 năm 2008 được coi là điểm đến của cuộc khủng hoảng.
“Có rất nhiều câu hỏi về… các cách pháp lý mà các cơ quan quản lý Hoa Kỳ có thể giải quyết Lehman và một số người cho rằng về cơ bản họ không thể làm được điều đó” - Diamond cho biết hôm 10-10.
Paul Krugman, một nhà kinh tế học từng đoạt giải Nobel và là người viết chuyên mục lâu năm cho New York Times, bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những người nhận được giải Nobel kinh tế năm nay trên Twitter.
Bernanke hiện là thành viên cấp cao xuất sắc tại Viện Brookings, một tổ chức tư vấn nổi tiếng. Diamond là giáo sư tại Đại học Chicago, trong khi Dybvig công tác tại Đại học Washington ở St. Louis.
Giải Nobel, chính thức được gọi là Giải thưởng Sveriges Riksbank về Khoa học Kinh tế, đi kèm với phần thưởng trị giá 10 triệu kronor Thụy Điển (885.370 USD) được chia đều cho những người đoạt giải.
Nó không phải do Alfred Nobel lập mà do ngân hàng trung ương của Thụy Điển thành lập và được trao để tưởng nhớ Nobel.