Nông sản xuất khẩu: Tăng chi phí logistics, giảm năng lực cạnh tranh

Thời gian qua, các mặt hàng nông sản, trái cây xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, trong đó có vấn đề liên quan đến logistics như chi phí dịch vụ cảng biển, bốc dỡ, lưu kho tăng khiến giá thành sản phẩm cao hơn các thị trường khác.

Chi phí logistics “ăn mòn” lợi nhuận

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 6 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 24,59 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, nhóm nông sản chính đạt 12,79 tỷ USD, tăng 12%; sản phẩm chăn nuôi đạt 232 triệu USD, tăng 26,5%; thủy sản đạt 4,13 tỷ USD, giảm 27,4%; lâm sản chính đạt 6,5 tỷ USD, giảm 28,2%...

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn nêu kỳ vọng xuất khẩu nông lâm thủy sản sẽ giải quyết được vấn đề suy giảm kim ngạch, hướng đến 3 quý đạt tăng trưởng 0%. Để từ đó, quý 4 sẽ tăng trưởng dương, và cả năm sẽ đạt con số 55 tỷ USD, tăng trưởng 3,4% so với năm 2022.

Báo cáo “Chuyển đổi nông nghiệp xanh của Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố năm 2022 cho thấy, bên cạnh những giải pháp về xúc tiến thương mại, marketing, quảng bá tiếp cận thị trường quốc tế, thì hệ thống logistics và lưu trữ bảo quản đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chuỗi giá trị hàng nông sản Việt Nam.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Tập đoàn Vina T&T, cho biết chi phí logistics nông sản tại Việt Nam đang rất cao, đang chiếm 20-25% giá trị hàng hóa, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 12% hay thế giới 14%.

“Nông sản của các nước khác có thể không hơn Việt Nam về chất lượng nhưng họ hơn về giá thành. Chỉ riêng chi phí logistics, giá thành sản phẩm của chúng ta đã hơn các thị trường khác mười mấy %. Như vậy rất khó để cạnh tranh”, ông Tùng nhận định.

Bà Nguyễn Nam Phương Thảo, Giám đốc Kinh doanh Công ty Hoàng Phát cho biết, hiện giá cước vận chuyển giảm nhiều, tác động đến giá thành hàng xuất khẩu, vì thế sản lượng trái cây xuất đi các thị trường tăng nhiều hơn so với trước. Tuy nhiên, giá thành sản phẩm đi các nước vẫn còn cao, bởi cước vận chuyển dù đã giảm mạnh so với thời điểm Covid-19 nhưng chi phí dịch vụ cảng biển, bốc dỡ, lưu kho vẫn đang liên tục tăng, mỗi quốc gia có một kiểu thu khác nhau và không ổn định.

Việc xuất khẩu trái cây nhất là qua đường vận tải biển còn đối diện với nhiều rủi ro, dù được theo dõi chặt chẽ nhưng có nhiều vấn đề khó lường trong chuỗi quy trình xuất hàng. Cụ thể là bảo quản hàng hóa sai nhiệt độ, hoặc có sự cố trong việc tùy chỉnh nhiệt độ, độ thông gió vào container (vent) trong quá trình vận chuyển, thời gian vận chuyển không đúng kế hoạch.

“Không ai mong muốn xảy ra sự cố, bởi khi sự cố xảy ra sẽ mất khách hàng, mất uy tín, người tiêu dùng không nhận được sản phẩm doanh nghiệp lại mất tiền và tốn thêm thời gian để xử lý lô hàng lỗi. Các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu rất quan tâm đến vấn đề môi trường, xử lý rác thải… nên doanh nghiệp sẽ đối diện với nhiều vấn đề khó khăn”, Bà Thảo chia sẻ.

Mặc dù sự cố xảy ra không thường xuyên nhưng cho thấy, các doanh nghiệp dù đã có sự chủ động nhưng đôi lúc vẫn có những vấn đề ngoài ý muốn khi xuất hàng ra nước ngoài. Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam, xuất khẩu nông sản phụ thuộc vào hệ thống logistics quốc tế. Do đó, Việt Nam xuất hàng nhiều nhưng giá trị thu về không đáng kể và chi phí logistics đang “ăn mòn” lợi nhuận từ nông sản xuất khẩu. Để chủ động hạn chế những rủi ro ngoài ý muốn, Việt Nam cần quan tâm xây dựng những trung tâm logistics khu vực, có những chuỗi cung ứng dịch vụ thu mua, thu gom đến vận tải, kho lạnh chế biến nhằm chủ động hỗ trợ cho hàng Việt vươn xa.

“Trước khi chất hàng vào container và trong quá trình container đi phải có những biện pháp để bảo quản hàng hóa sao cho tốt, rút ngắn thời gian bảo quản... Hiện nay các vấn đề giá cước vận chuyển dù đã giảm nhưng dịch vụ logistics vẫn còn thiếu và yếu”, ông Nguyên thẳng thắn.

Còn theo bà Nguyễn Tú Uyên, Tổng Giám đốc Công ty CMU Logistics, xuất khẩu trái cây phải trải qua nhiều công đoạn nhưng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ của chúng ta phát triển chưa đồng bộ, chưa thật sự kết nối nên phát sinh nhiều thời gian, chi phí, gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, giá thành của nông sản.

Hệ thống cao tốc vẫn bị kẹt xe tại các nút giao, điểm nghẽn. Hệ thống kho bãi manh mún, cơ sở chế biến nông sản còn thiếu, quy mô nhỏ. Chuỗi kho mát, kho lạnh phục vụ cho nông sản còn thiếu.

Hãng tàu, hãng hàng không đang hoạt động tại Việt Nam hầu hết đều của nước ngoài, nên doanh nghiệp bị phụ thuộc vào giá cước vận chuyển, thời gian transit, lịch vận chuyển…

Xây dựng các trung tâm logistics nông sản

Từ thực tế này, bà Nguyễn Tú Uyên đề xuất cần có quy hoạch xây dựng các trung tâm logistics nông sản, trong đó có kho mát để phân loại, bảo quản, sơ chế giúp nâng cao chất lượng và ổn định giá thành.

Đồng thời, tăng cường đầu tư hạ tầng logistics cho hàng hóa nông sản, nhất là các vùng nông sản tập trung, chủ lực. Kết nối đường thủy - đường bộ - đường sắt phát huy sức mạnh tổng thể logistics nội địa.

Ngoài ra, bà kiến nghị Chính phủ cần quan tâm đẩy mạnh hơn nữa đầu tư cơ sở hạ tầng vận tải đường bộ kết nối từ các vùng nguyên liệu khu vực đồng bằng sông Cửu Long để người nông dân, các hợp tác xã có cơ hội đưa sản phẩm nông nghiệp đến các thị trường xuất khẩu với chất lượng tốt nhất.

Về phía doanh nghiệp, bà Uyên cho rằng các doanh nghiệp logistics nên áp dụng công cụ quản lý tiên tiến trong công nghệ 4.0: AI, Big Data, Blockchain… giúp giảm chi phí, tăng hiệu suất kinh doanh. Đồng thời, cần xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ chuỗi cung ứng logistics đa phương thức và toàn diện.

PGS.TS Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI), bổ sung thêm, cần có thể chế và chính sách thiết lập hệ sinh thái logistics chuỗi lạnh gồm sản xuất, chế biến và thương mại.

Quy hoạch đất cho các trung tâm, cụm logistics và trung tâm chế biến sau thu hoạch. Hoàn thiện thể chế, đặc biệt là khung pháp lý liên quan đến liên kết vùng, cải thiện kết nối khu vực.

Viện trưởng VLI kiến nghị, cần phát triển nguồn nhân lực và nền tảng điện tử cho logistics chuỗi lạnh như bản đồ chuỗi lạnh, chia sẻ dữ liệu và cơ sở hạ tầng. Tăng cường vai trò của hợp tác công tư.

Đặc biệt, PGS.TS Hồ Thị Thu Hòa đề xuất phát triển mô hình liên kết 2 nhà là Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) và Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) và mô hình liên kết 4 nhà gồm VLA, Vinafruit, UNIDO và VLI.

“Cần liên kết các đơn vị tạo chuỗi dịch vụ logistics tích hợp đối với hàng nông sản xuất khẩu giúp khách hàng giảm chi phí, thời gian. Liên kết ngang với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nhằm phát triển mạng lưới”, Viện trưởng VLI nhấn mạnh.

Cơ quan quản lý nhà nước cần chú trọng quy hoạch mạng lưới hạ tầng logistics (hạ tầng cứng và mềm ICT) và đầu tư hạ tầng cho khu vực, đặc biệt hạ tầng vận tải kết nối đầu nguồn thu hoạch-hạ tầng trung tâm logistics phục vụ hàng nông sản.

Với các doanh nghiệp xuất khẩu, cần quan tâm các phương án dịch vụ logistics để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất. Tăng tỷ lệ thuê ngoài logistics để tăng tính chuyên môn hóa, giảm tỉ lệ hao hụt, tổn thất. Kết hợp với các doanh nghiệp trong sử dụng dịch vụ logistics để tận dụng lợi thế nhờ quy mô; tạo liên kết mạng lưới chủ hàng.

Phương Thảo

Tạp chí in số tháng 8/2023

Nguồn TCDN: https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/nong-san-xuat-khau-tang-chi-phi-logistics-giam-nang-luc-canh-tranh-d40716.html