Nóng trong tuần: Chính sách mới với học sinh vùng khó; đẩy mạnh phổ cập giáo dục
Chính sách mới với học sinh vùng khó, ban hành kế hoạch đẩy mạnh phổ cập giáo dục và phân luồng học sinh là tin tức giáo dục đáng chú ý tuần qua.

Học sinh Trường Tiểu học và THCS A Xing, Hướng Hóa, Quảng Trị.
Học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo được hưởng chính sách mới
Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2025/NĐ-CP quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách.
Nghị định này quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách
Nghị định quy định trẻ em nhà trẻ bán trú thuộc đối tượng quy định sẽ được hỗ trợ tiền ăn trưa: Mỗi trẻ em nhà trẻ được hỗ trợ mỗi tháng là 360.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
Học sinh bán trú, học viên bán trú thuộc đối tượng quy định được hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở, hỗ trợ gạo.
Cụ thể, về tiền ăn, mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ mỗi tháng là 936.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
Về tiền nhà ở, mỗi học sinh bán trú, học viên bán trú phải tự túc chỗ ở do nhà trường không thể bố trí chỗ ở trong trường hoặc học sinh lớp 1, lớp 2, học sinh khuyết tật có nhu cầu tự túc chỗ ở gần trường để người thân chăm sóc thì mỗi tháng được hỗ trợ 360.000 đồng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
Ngoài ra, mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
Riêng đối với học sinh bán trú lớp 1 là người dân tộc thiểu số có học tiếng Việt trước khi vào học chương trình lớp 1 thì được hưởng thêm 1 tháng các chính sách quy định trên.
Nghị định quy định học sinh dân tộc nội trú và học sinh dự bị đại học được hưởng học bổng chính sách, khen thưởng, trang cấp đồ dùng cá nhân và học phẩm, tiền tàu xe, hỗ trợ gạo.
Học bổng chính sách: Quy định tại Điều 9 Nghị định số 84/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục.
Khen thưởng: Trong năm học, học sinh đạt danh hiệu "Học sinh Xuất sắc" được thưởng 800.000 đồng/học sinh; học sinh đạt danh hiệu "Học sinh Giỏi" được thưởng 600.000 đồng/học sinh.
Trang cấp đồ dùng cá nhân và học phẩm: Học sinh dân tộc nội trú ở mỗi cấp học và học sinh dự bị đại học được cấp một lần bằng hiện vật: Chăn, màn và các đồ dùng cá nhân khác với mức kinh phí là 1.080.000 đồng/học sinh;
Mỗi năm học, học sinh được cấp 2 bộ quần áo đồng phục và học phẩm gồm: Vở, giấy, bút và các dụng cụ học tập khác với mức kinh phí là 1.080.000 đồng/học sinh;
Tiền tàu xe: Học sinh dân tộc nội trú được cấp tiền tàu xe 2 lần vào dịp tết nguyên đán và dịp nghỉ hè (cả lượt đi và lượt về) theo giá vé thông thường của phương tiện giao thông công cộng (trường hợp địa bàn không có phương tiện giao thông công cộng thì được tính theo quãng đường và giá vé thông thường của phương tiện giao thông công cộng trên địa bàn tương đồng khác của tỉnh). Học sinh dự bị đại học và học sinh dân tộc nội trú cuối cấp chỉ được cấp tiền tàu xe một lần vào dịp tết nguyên đán (cả lượt đi và lượt về).
Hỗ trợ gạo: Mỗi học sinh được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
Nghị định cũng quy định các chính sách đối với cơ sở giáo dục mầm non có trẻ em nhà trẻ bán trú; trường phổ thông dân tộc bán trú; trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học.

Ban hành kế hoạch về công tác phổ cập giáo dục, đẩy mạnh phân luồng học sinh
Phó Thủ tướng Lê Thành Long ký Quyết định số 525/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 5/1/2024 của Bộ Chính trị về công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông đến năm 2030.
Theo kế hoạch này, tiếp tục duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo. Tỷ lệ huy động trẻ đến trường đạt 38% trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ và 97% trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo; phấn đấu có 99,5% trẻ em mầm non đến trường được học 2 buổi/ngày; phấn đấu tỷ lệ trường mầm non dân lập, tư thục đạt 30%, số trẻ em theo học tại các cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục đạt 35%...
Đối với giáo dục phổ thông, duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và THCS; 75% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; 40% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3; 60% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2.
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học đạt 99,5%, cấp THCS đạt 97%; tỷ lệ hoàn thành cấp tiểu học đúng độ tuổi đạt 99,7%, THCS đạt 99% và hoàn thành cấp THPT đạt 95%; tỷ lệ chuyển cấp từ tiểu học lên THCS đạt 99,5%, từ THCS lên THPT và các trình độ khác đạt 95%; 100% học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày.
Phấn đấu 100% giáo viên phổ thông đạt chuẩn trình độ chuẩn được đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục; phấn đấu số cơ sở giáo dục phổ thông tư thục đạt 5% và số học sinh theo học tại các cơ sở giáo dục phổ thông tư thục đạt 5,5%.
Phấn đấu tỷ lệ phòng học kiên cố cấp tiểu học, cấp THCS, cấp THPT đạt 100%; có 70% trường tiểu học, 75% trường THCS và 55% trường THPT đạt chuẩn quốc gia.
Với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên, xóa mù chữ cho 0,5% người lớn chưa biết chữ, trong đó xóa mù chữ cho 0,4% người lớn chưa biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 60.
Phấn đấu tỷ lệ người biết chữ mức độ 1 trong độ tuổi từ 15 - 60 đạt 99,1%, trong đó tỷ lệ người biết chữ mức độ 1 trong độ tuổi từ 15 - 60 ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt 98,8%. Có 90% các tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.
Phấn đấu 100% học sinh THCS và THPT được tiếp cận dịch vụ hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp chuyên nghiệp. Tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi 15-25 học giáo dục nghề nghiệp đạt 20%. Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 50% lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 90%. Xây dựng và phát triển ít nhất 70% trường nghề đạt chuẩn quốc gia và quốc tế.
Triển khai mô hình thành phố học tập trên toàn quốc; có ít nhất 50% huyện/quận/thị xã/thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được công nhận danh hiệu huyện/thành phố học tập và 35% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được công nhận danh hiệu tỉnh, thành phố học tập. Phấn đấu có 10 đơn vị hành chính tham gia vào mạng lưới thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Phấn đấu 100% số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập.
Nhằm đạt được các mục tiêu trên, Kế hoạch đưa ra 4 nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm gồm: Tổ chức phổ biến quán triệt, tuyên truyền Chỉ thị số 29-CT/TW; hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới, nâng cao chất lượng; tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông.

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng phát biểu kết luận hội nghị tổng kết công tác tài chính năm 2024 và triển khai dự toán ngân sách nhà nước năm 2025 đối với các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ.
Bộ GD&ĐT tổng kết công tác tài chính, triển khai hoạt động khoa học-công nghệ năm 2025
Chiều 12/3, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị tổng kết công tác tài chính năm 2024 và triển khai dự toán ngân sách nhà nước năm 2025 đối với các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ.
Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2024, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Trần Thanh Đạm cho biết, Bộ GD&ĐT đã chủ động triển khai đầy đủ các quy định về quản lý tài chính, ngân sách, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tài chính, tài sản, kịp thời khắc phục một số vướng mắc trong công tác quản lý tài chính, tài sản tại các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ.
Dự toán năm 2024 cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ quan trọng, cần thiết, đặc biệt là đảm bảo kinh phí để thực hiện chế độ chính sách cho sinh viên sư phạm. Công tác xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ hằng năm từng bước đi vào nền nếp, có chuyển biến tích cực về mặt thời gian, sớm hơn so với các năm trước.
Phát biểu kết luận hội nghị, Thứ trưởng Lê Tấn Dũng yêu cầu, năm 2025, các đơn vị thực hiện nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng, quy định của pháp luật, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước.
Thực hiện tốt Công điện số 16/CĐ-TTg về việc đôn đốc đẩy mạnh phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2025, Chỉ thị số 05/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
Thứ trưởng cũng yêu cầu, cần kịp thời khen thưởng các đơn vị, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xử lý nghiêm theo quy định trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân chậm hoặc không thực hiện các nhiệm vụ. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để theo dõi, giám sát tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công theo thời gian thực.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin Phạm Quang Hưng và Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ Trần Trung Tính chủ trì thảo luận tại hội nghị triển khai hoạt động khoa học và công nghệ năm 2025.
Ngày 14/3, tại Cần Thơ, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị triển khai hoạt động khoa học và công nghệ năm 2025.
Năm 2024, hoạt động khoa học công nghệ của các đơn vị trực thuộc Bộ GD&ĐT đã đạt được những chuyển biến nhất định về nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ; nhất là nhân lực khoa học công nghệ đã đạt được những bước phát triển rõ rệt về tỷ lệ tiến sĩ/tổng số giảng viên. Tất cả các tổ chức khoa học và công nghệ đều tham gia, thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ phát triển giáo dục và đào tạo, có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo thống kê tiềm lực từ các đơn vị trực thuộc, năm 2024 cán bộ giảng viên đã công bố được 9.249 bài báo trên các tạp chí khoa học uy tín trong nước, chất lượng các công bố ngày càng được nâng cao.
Số lượng công bố khoa học Q1, Q2 trên tạp chí thuộc danh mục Web of Science (WoS) năm 2024 là 2.258 bài; số lượng công bố khoa học trên tạp chí thuộc cơ sở dữ liệu Scopus năm 2024 là 3.202 bài; công bố khoa học trên tạp chí quốc tế khác: công bố trên tạp chí khoa học thuộc cơ sở dữ liệu ACI 730 bài, công bố quốc tế khác 1.450 bài.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học cần bắt tay ngay việc tổ chức quán triệt, triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ. Từ đó, rà soát định hướng chiến lược, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong giáo dục để có điều chỉnh kịp thời, áp dụng vào thực tế để triển khai.
Cơ sở giáo dục đại học cũng cần tăng cường hợp tác đào tạo trong và ngoài nước, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến giữa các nước để áp dụng vào thực tiễn giáo dục tại địa phương; ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nền kinh tế số 4.0; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nội bộ trong sử dụng nguồn lực, cơ sở vật chất, sử dụng hợp lý, hiệu quả, tránh lãng phí…
Sáng 14/3, Đoàn Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm việc với Bộ GD&ĐT về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn, lãnh đạo các cục, vụ của Bộ GD&ĐT đã trao đổi, làm rõ những vấn đề đoàn giám sát đưa ra, liên quan đến quan niệm, định nghĩa về nguồn nhân lực chất lượng cao; quy mô, cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực; việc mở mã ngành, đào tạo nhân lực cho ngành mũi nhọn; xây dựng Chiến lược giáo dục đại học; hệ thống mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học địa phương; xã hội hóa trong giáo dục; đánh giá chất lượng đào tạo giáo dục đại học…