Nữ tình báo hàng chục lần bị địch bắt giam tra tấn vẫn quyết không khai
Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, hàng chục lần bà bị địch bắt giam, tra tấn dã man nhưng vẫn không khai thác được thông tin gì.
Người được nhắc đến là bà Ngô Thị Huệ, sinh năm 1942 tại Đà Nẵng.
Sinh ra trong qgia đình nghèo, có truyền thống cách mạng, bà Ngô Thị Huệ sớm được giác ngộ cách mạng từ nhỏ. Năm 10 tuổi, bà gia nhập tổ chức thiếu nhi làm nhiệm vụ canh gác, đưa thư từ, liên lạc cho cán bộ. Sau đó, bà tham gia hoạt động tại Đội công tác của thành phố Đà Nẵng, phục vụ công tác nắm tình hình.
Trong những năm tháng hoạt động, hàng chục lần bà Huệ bị địch bắt giam nhưng rồi lại phải thả vì không khai thác được thông tin gì. Bà từng kể, mọi đòn thù dã man của giặc bà đều đã can qua, từ tra tấn điện đến tạt nước vôi vào người.
Tàn bạo hơn, chúng cho hai tên lính cộng hòa uống rượu rồi thay nhau làm nhục. Bà đã chống cự quyết liệt khiến chúng không thực hiện được hành vi xấu xa, tức giận hai tên lính quay sang dùng những đôi giày đinh đánh bà. Chính sau trận đánh tàn ác ấy, nữ anh hùng Ngô Thị Huệ - lúc ấy vẫn còn là cô gái ngoài đôi mươi hồn nhiên, chưa một lần yêu đã vĩnh viễn mất đi khả năng làm mẹ.

Nữ điệp viên Ngô Thị Huệ trong bức ảnh chính quyền Sài Gòn lưu giữ năm 1968. (Ảnh tư liệu)
Năm 1963, ngay khi vừa ra tù và phục hồi vết thương, bà Huệ gia nhập Tổ điệp báo (Ban an ninh Quảng Đà). Công việc của người làm tình báo cần thu thập thông tin, nắm chắc tình hình địch, chuyển tài liệu quan trọng… nên bà phải biến hóa rất nhiều vai diễn: khi làm cô gái quê, khi lại lẳng lơ quyến rũ quân địch, khi làm con buôn hút thuốc phì phèo.
Nữ tình báo từng kể, mọi vật dụng đều có thể sử dụng làm công cụ theo dõi, né tránh quân địch. Ví dụ khi đang đi trên đường, nếu phát hiện địch ở xa, muốn theo dõi chúng, bà thường lấy hộp phấn trang điểm ra sử dụng. Một bên đựng phấn hóa trang, một bên đựng gương soi để theo dõi bọn địch ở phía sau, xem chúng hành động gì, đồng thời tìm phương án để đối phó.
Hay chiếc kính râm với bộ khung bằng nhựa, hai mắt bằng thủy tinh bà luôn mang bên người. Khi đeo lên mắt sẽ có tác dụng làm thay đổi hình dạng khuôn mặt, để bọn địch khó phát hiện trong những lúc bà hoạt động. Để giữ được bí mật trong công tác hoạt động tình báo bà cũng thường mặc áo dài trong vai nữ sinh hay vợ của lính.
Đầu năm 1969, trong một lần đi cơ sở, bà Nguyễn Thị Huệ bị thương do bom địch, mảnh kim loại còn trên đầu, được tổ chức đưa ra Bắc chữa trị. Hai anh trai và chị hy sinh, ba cũng mất vì vết thương tái phát, nỗi đau tinh thần cùng di chứng mảnh bom hành hạ làm bà Huệ liên tục lên cơn động kinh.
Sau ngày giải phóng, bà Huệ trở về quê công tác rồi nghỉ hưu từ năm 1993 với quân hàm Trung tá. Chồng bà, ông Trần Viết Trí cũng là cựu tù yêu nước, từng góa vợ. Không được làm mẹ, bà nuôi hai con trai của chồng nên người.
Với những đóng cho sự nghiệp cách mạng, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.