Oái oăm quy đổi bằng Quản lý giáo dục: hiệu trưởng xuống hạng, giáo viên lên
Chỉ cần một điểm không phù hợp trong Thông tư là ảnh hưởng đến quyền lợi cả chục ngàn giáo viên, thậm chí hàng trăm ngàn giáo viên khi xếp hạng, xếp lương mới.
Câu chuyện văn bằng bắt đầu rắc rối, phức tạp kể từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chùm Thông tư số 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường từ mầm non đến trung học cơ sở công lập ra đời bởi nó gây ra nhiều bất lợi cho nhà giáo.
Đặc biệt là đối với Thông tư số 02, 03/2021/TT-BGDĐT áp dụng về chuẩn trình độ cho giáo viên ở cấp tiểu học và trung học cơ sở khi quy đổi, công nhận bằng Quản lý giáo dục với bằng chuyên môn của nhà giáo.
Sự bất cập cập này thể hiện rất rõ khi quy đổi, công nhận bằng quản lý giáo dục đối với giáo viên hạng II và hạng I. Hiệu trưởng đang ở hạng II đã có bằng quản lý giáo dục thì không được quy đổi sang chuẩn chuyên môn phù hợp thì phải xuống hạng III nhưng nếu giáo viên dạy lớp nếu có bằng quản lý giáo dục thì vẫn cho là có bằng chuyên môn phù hợp để xếp ở hạng I.
Nghịch lý này, không biết khi ban hành các Thông tư này thì lãnh đạo Bộ, đặc biệt là Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục có để ý tới hay không?
Cùng một chuyên ngành học nhưng mỗi hạng giáo viên có cách quy đổi, công nhận khác nhau
Thời gian qua, trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có khá nhiều những bài viết đề cập đến việc nhiều hiệu trưởng, phó hiệu trưởng cấp tiểu học và trung học cơ sở đã có bằng cao đẳng sư phạm và bằng cử nhân quản lý giáo dục nhưng vẫn không được tính đủ chuẩn trình độ theo Điều 72, Luật Giáo dục 2019.
Những bài viết này đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của rất nhiều nhà giáo đang là quản lý ở các nhà trường của 2 cấp học này trên cả nước. Bởi, ai cũng biết việc học văn bằng quản lý giáo dục cũng vất vả không kém gì so với học bằng cử nhân chuyên môn, thậm chí chương trình đào tạo còn nặng hơn.
Nhưng, với cách tính, xếp hạng hiện nay đang được thực hiện ở các địa phương thì nhiều hiệu trưởng, phó hiệu trưởng nhà trường đang là giáo viên hạng II theo các Thông tư 21, 22/2015/TTLT-BGDĐT-BNV phải xuống hạng III theo các Thông tư 02,03/2021/TT-BGDĐT.
Điều chúng tôi thấy băn khoăn vô cùng là tại sao khi xếp loại giáo viên hạng II cho nhà giáo thì bằng cử nhân quản lý giáo dục lại không được tính như bằng chuyên môn? Trong khi, nhiều nhà giáo đang là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng thì tấm bằng này đã đảm bảo tiêu chí “có bằng cử nhân phù hợp” theo hướng dẫn của Luật Giáo dục năm 2019.
Nếu lãnh đạo, quản lý nhà trường mà tấm bằng cử nhân quản lý giáo dục không được xem là “có bằng cử nhân phù hợp” thì bằng nào mới có thể phù hợp hơn?
Điều oái oăm nhất mà chúng tôi thấy là cũng trong Thông tư 02,03/2021/TT-BGDĐT thì các tiêu chuẩn đối với giáo viên hạng I lại công nhận, quy đổi bằng quản lý giáo dục ngang hàng với bằng chuyên môn.
Cụ thể, tại điểm a, khoản 3 Điều 5, Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT hướng dẫn về tiêu chuẩn trình độ bồi dưỡng của giáo viên tiểu học xếp hạng I như sau:
“Có bằng thạc sĩ trở lên thuộc ngành đào tạo giáo viên đối với giáo viên tiểu học hoặc có bằng thạc sĩ trở lên chuyên ngành phù hợp với môn học giảng dạyhoặc có bằng thạc sĩ quản lý giáo dục trở lên”.
Cũng tại điểm a, khoản 3 Điều 5, Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT hướng dẫn về tiêu chuẩn, trình độ bồi dưỡng của giáo viên trung học cơ sở xếp hạng I như sau:
“Có bằng thạc sĩ trở lên thuộc ngành đào tạo giáo viên đối với giáo viên trung học cơ sở hoặc có bằng thạc sĩ trở lên chuyên ngành phù hợp với môn học giảng dạyhoặc có bằng thạc sĩ quản lý giáo dục trở lên”.
Với giáo viên mầm non, yêu cầu bằng cấp đối với hạng I, hạng II theo Thông tư 01/2021/TT-BGDĐT là:
Bằng cử nhân giáo dục mầm non trở lên; Hoặc bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm giáo dục mầm non và có bằng cử nhân quản lý giáo dục trở lên.
Như vậy, nhìn vào hướng dẫn của Thông tư 01, 02,03/2021/TT-BGDĐT tiêu chuẩn, trình độ bồi dưỡng của giáo viên tiểu học, trung học cơ sở đối với giáo viên hạng I thì 3 văn bằng “có bằng thạc sĩ trở lên thuộc ngành đào tạo giáo viên” hoặc “có bằng thạc sĩ trở lên chuyên ngành phù hợp” hoặc “có bằng thạc sĩ quản lý giáo dục trở lên” đều có giá trị ngang nhau.
Vì 3 vế câu tại điểm a, khoản 3, Điều 5 của Thông tư 02,03/2021/TT-BGDĐT được nối với nhau bằng từ “hoặc” nên ai cũng hiểu khi nhà giáo có 1 trong 3 văn bằng này là đảm bảo về trình độ chuẩn đối với giáo viên hạng I.
Vậy, tại sao giáo viên hạng I thì công nhận bằng chuyên môn và bằng quản lý giáo dục ngang nhau nhưng đối với giáo viên hạng II của cấp tiểu học và trung học cơ sở lại không công nhận những nhà giáo đang là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng đã có bằng cử nhân quản lý giáo dục ngang với bằng đại học chuyên ngành sư phạm hoặc chuyên ngành phù hợp?
Trong khi, tiêu chuẩn trình độ, bồi dưỡng giáo viên hạng II, hạng I cũng cùng nằm trong một Thông tư, cùng đều do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Nếu Bộ đã công nhận bằng thạc sĩ quản lý giáo dục ngang hàng với bằng thạc sĩ đào tạo giáo viên thì phải công nhận bằng đại học đào tạo giáo viên với bằng cử nhân quản lý giáo dục- đó mới là công bằng và hợp lý.
Mâu thuẫn này, có lẽ những nhà giáo đang chịu tác động trực tiếp của Thông tư 02,03/2021/TT-BGDĐT không thể lý giải được mà phải nhờ lãnh đạo Bộ mà đặc biệt là Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục giải thích giùm vậy!
Trách nhiệm của Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục trong sự việc này
Chúng ta đều biết, chùm Thông tư số 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT có tác động trực tiếp đến quyền lợi của hơn 1 triệu nhà giáo từ cấp mầm non đến trung học phổ thông trên cả nước. Chỉ cần một điểm không phù hợp là ảnh hưởng đến quyền lợi cả chục ngàn giáo viên, thậm chí hàng trăm ngàn giáo viên khi xếp hạng, xếp lương mới.
Chính vì thế, cơ quan chủ quản (Bộ Giáo dục và Đào tạo) khi ban hành một văn bản mới cần phải thực sự cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng và đặc biệt là nên cầu thị, lắng nghe tiếng nói từ những người chịu tác động trực tiếp của văn bản đó.
Song, hơn 10 tháng qua mọi thứ vẫn không hề thay đổi, cho dù hàng trăm bài viết phản biện về vấn đề này khá thấu đáo đăng trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam vẫn không thay đổi được quan điểm chỉ đạo của Bộ.
Vậy nên, hàng triệu nhà giáo đã rất vui mừng khi nghe Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo nhanh chóng rà soát, sửa đổi chùm Thông tư số 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT trong phiên chất vấn đại biểu Quốc hội ngày 11/11 vừa qua.
Đặc biệt, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà đã nói bằng những câu gan ruột của mình:“Trong quá trình tổ chức thực hiện chúng tôi đã tiếp nhận được rất nhiều những đơn thư đề nghị từ giáo viên ở cơ sở trong việc còn những vướng mắc, bất cập, bởi vì chúng ta chưa tính đến sự chuyển tiếp đối với rất nhiều thế hệ giáo viên đào tạo qua nhiều hệ đào tạo khác nhau”. [1]
Ai cũng biết để ban hành chùm Thông tư này thì Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tham mưu, xây dựng văn bản.
Đặc biệt, ngày 12/3/2021 thì Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục đã ban hành Công văn số 971/BGDĐT-NGCBQLGD về việc triển khai thực hiện mã số, tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập do ông Đặng Văn Bình- Phó Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục đặt bút ký.
Sau khi chùm Thông tư số 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT ra đời và Công văn số 971/BGDĐT-NGCBQLGD được ban hành thì đa phần các địa phương đã có kế hoạch và triển khai việc xếp hạng giáo viên 4 cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông với biết bao nhiêu công sức của nhiều cơ quan, đơn vị…
Bây giờ, ngoài việc Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi chùm Thông tư này theo đề xuất của Bộ Nội vụ thì cũng cần xem xét trách nhiệm của cơ quan tham mưu ban hành các thông tư này, mặc dù có ai đó phải nhận trách nhiệm thì những hệ lụy từ chùm Thông tư này cũng rất lớn, không thể đong đếm được.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://giaoduc.net.vn/tieu-diem/bo-noi-vu-de-nghi-bo-giao-duc-het-suc-khan-truong-sua-thong-tu-01-02-03-04-post222348.gd