Ông Ba Bị từ đời tám hoánh

Trong giao thiệp hằng ngày, thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe cụm từ: 'Đời tám hoánh', được hiểu là chỉ về sự việc/ sự vật gì đó xảy ra từ lâu lắm rồi, đã xưa lắc xưa lơ, đã xa rất xa… Chẳng hạn một người bảo: 'Cái bình này cổ lắm, người ta làm ra từ đời tám hoánh'. Cơn cớ gì 'từ đời tám hoánh' lại xuất hiện trong các trường hợp tương tự?

Tập sách “Tiếng Việt ân tình” giải thích: “Theo tác giả Bùi Nguyên Căn (?) thì “tám hoánh" hay viết đúng hơn là Tám Hoánh vốn là tên một nhân vật có thật. Đây là một địa chủ xứ Thái Bình, Nam Định vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Tám Hoánh nổi tiếng giàu có nhưng lại ăn chơi trác táng nên dần dần tiền bạc danh vọng đều tiêu tan. Có lần đánh bạc thua, hắn bị mất gần hết lãnh thổ của mình, chỉ còn lại một phán huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định ngày nay”.

Tranh vẽ sinh hoạt người miền Nam xưa. Ảnh tư liệu.

Tranh vẽ sinh hoạt người miền Nam xưa. Ảnh tư liệu.

Nghe chừng cũng có hợp lý? Kể ra, khi sử dụng tên tuổi của nhân vật nào đó không phải vô cớ, bởi họ nổi tiếng khiến nguời tiếp nhận thông tin ấn tượng, dễ nhớ hơn.

Ngày xưa ở trong Nam có câu “Ngang như ông Hoành, ông Trắm”. Trong tập sách “Chuyện khôi hài” (1882), nhà văn hóa Trương Vĩnh Ký cho biết: “Ông tiền quân Trắm (tổng Trắm), nguyên là người Bắc, bị đày vô Nam với ông Khôi. Sau giặc Khôi nổi lên mà bị binh trào hạ thành được, bắt đóng gông bỏ vô củi điệu về kinh… Sau ngồi củi điệu về Huế, ra tới Bình Thuận, ông ấy cắn lưỡi mà chết đi”.

Tuy nhiên cái sự ngang tàng ấy, đời sau ít ai còn nhớ, đơn giản vì ông Hoành, ông Trắm có liên quan đến cuộc nổi dậy của con nuôi Lê Văn Duyệt, người đương thời bèn… né đi vì sợ triều đình, không nhắc tới nữa. Do đó “lai lịch” ông Hoành, ông Trắm mờ nhạt theo năm tháng. Ngược lại, có nhân vật ngày xưa đã ra rả réo tên mà nay cũng thế, nhưng rồi chẳng mấy ai biết rõ “người đó là ai”.

Nhân vật nào thế nhỉ?

“Mỗi bận thằng Còi bị đem ra tắm khóc thét lên, chị Ngò dọa: - Kìa, kìa ông Ba Bị cắn chết bây giờ, tay chỉ sang nhà bên cạnh, cách nhà chị một hàng rào mắt cáo”; “Có khi muốn làm mặt Ba Bị thực, anh lồng ngón tay vào miệng kéo xoạc hai mép ra và trợn tròn hai mắt”. Chi tiết này, từ năm 1941 nhà văn Bùi Hiển viết trong truyện ngắn “Chuyện ông Ba Bị làng chài”.

Ông Ba Bị là ai?

“Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) giải thích: “Ba bị: Giống quái lạ người ta bịa ra để dọa trẻ con: Ba bị chín quai mười hai con mắt. Nghĩa bóng là tồi tàn, xấu xí: đồ ba bị”. “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) xếp ông bị/ ông kẹ chung một giuộc: “Đều là tiếng nhát con nít”.

Ủa, ông kẹ là ai mà chung hội cùng thuyền với ông bị/ ông Ba Bị? Theo ông Hùinh Tịnh Paulus Của: “Tưởng là ông Trị, là người có công với đức Cao hoàng, đến khi phục quốc người ban cho một cái bài miễn tử, bổn tính ông ấy thật thà, hay khí bất bình, ai nấy đều sợ, cho nên có tiếng nhát con nít rằng: ý hù ông kẹ v.v…”. Giải thích này có từ “tưởng là”, tức không quả quyết chắc chắc, chỉ phỏng đoán.

Vấn đề đặt ra ở đây, có phải ông bị/ ông Ba Bị trở thành tên riêng là từ danh từ chung?

Có thể lắm, cái tên “bị” ấy là nhằm chỉ một hạng người, cụ thể là “Bị: “Cái bị. Lấy bị đi ăn mày. Mang bị để xin ăn”, “Bị ăn mày. Cái bị của người xin của bố thí” (Từ điển Việt - Bồ - La,1651); “Bị gậy. Một cái bị, một cây gậy, là đồ nghề ăn mày”, “Mang bị. Đi ăn mày”, “Xách bị. Đi ăn mày” (Đại Nam quấc âm tự vị, 1895); “Bị gậy: Cái bị và cây gậy, nói người ăn mày” (Việt Nam tự điển, 1931). Tục ngữ cũng có những câu như “Ăn mày cầm tinh bị gậy”, “Quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy”… Vậy suy ra, ông bị/ ông Ba Bị là danh từ riêng xuất phát từ danh từ chung là “bị/ cái bị” để ám chỉ về người ăn mày?

Cách giả thích này, liệu có đúng không?

Tôi dám quả quyết rằng không. Bởi lẽ trong tâm thức người Việt không hề khinh bỉ, rẻ rúng người thất thế, cơ hàn: “Thấy người hoạn nạn thì thương/ Thấy người tàn tật lại càng trông nom/ Thấy người già yếu ốm mòn/ Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần” (Gia huấn ca), chứ huống gì họ rơi vào cảnh ngộ phải đi ăn xin. Cần phải giúp đỡ họ cũng là giúp cho mình, nhỡ sau này: “Ăn mày là ai, ăn mày là ta/ Đói cơm rách áo, hóa ra ăn mày”.

Với ý thức “lá lành đùm lá rách”, thiết tưởng chẳng ai đem người ăn mày ra thêm thắt chi tiết hình thù quái dị nhằm dọa trẻ con. Hơn nữa, nếu “bị” nhằm ám chỉ cái bị của ăn mày, sao người đó lại mang đến những ba cái bị? Hoặc giả “ba” là thứ tự thì tại sao không gọi ông Hai Bị, ông Bốn Bị, ông Năm Bị mà phải là Ba Bị?

Vậy, ông Ba Bị là ai?

Tập sách “Hương Giang cố sự” (NXB Thuận Hóa - 1986) của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng: “Ông Ba Bị chính là cụ Phạm Đăng Hưng, người Gò Công (Nam Bộ), có thân hình cao lớn với bộ râu rậm và cứng như râu Trương Phi. Ông làm quan trải qua các triều Gia Long và Minh Mạng, nổi tiếng là quang minh chính trực… Mỗi lần đi thăm các địa phương, cụ thường mang theo ba cái bị đựng các giống lúa quý. Đến đâu thấy dân làm ăn khó khăn, cụ phát cho một ít và hướng dẫn cách nhân giống” (tr.22). Khó có thể tìm tài liệu kiểm chứng chi tiết này, lại ngạc nhiên vì sao một bậc đại quan, cha vợ vua Thiệu Trị, ông ngoại vua Tự Đức, thân phụ bà Từ Dũ mà mỗi lần xuống ra dân lại phải tự mang vác như thế? Kể ra cũng lạ.

Thật ra, ông Ba Bị không dây mơ rễ má gì đến người ăn mày, cũng không phải cụ Phạm Đăng Hưng. Trong “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong” (NXB TP Hồ Chí Minh-1995), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiền Đức cho biết mà đây là bậc chân tu sống dưới đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1767-1777): “Hòa thượng Trung Đình đi hoằng hóa, khất thực, không mặc quần áo hay y bát, mà chỉ đóng khố và trên mình đeo ba cái bị: Một cái bị dụng các thức ăn chay để ngài dùng; Một cái bị đựng các thức ăn mặn mà bá tánh cho để cho những người nghèo hay những người ăn xin; Một cái bị lớn để trống hễ nghỉ đêm ở đình nào hòa thượng treo cái bị này lên mái đình và ngồi vào trong đó mà ngủ.

Ban đêm, hòa thượng vẫn công phu trì tụng kinh điển nghiêm mật, đêm khuya ngồi vào bị mà nghỉ. Ban ngày hòa thượng đi khất thực, vì ngài có hình dạng dị thường, không mặc quần áo, chỉ đóng khố, trên mình có mang ba cái bị, trẻ con trông thấy đều hoảng sợ. Vì vậy, người dân gọi Hòa thượng là "Ông Ba Bị” và thường dùng “Ông Ba Bị” để dọa trẻ con.

Sau thời gian tu hành đắc quả, hết nhân duyên hoằng hóa, hòa thượng Trung Đình xin lập hỏa đàn ở chùa Thiên Mụ để hóa xác và thông báo cho dân chúng biết. Chúa có ban cho Hòa thượng bộ y phục. Đến ngày hóa xác, hòa thượng đắp y, đội mão hòa thượng do Chúa ban cho, bước lên giàn hỏa. Dân chúng thời đó xin hòa thượng lưu lại di vật để tôn thờ thì ngài đưa lên một ngón tay.

Khi hòa thiêu, ngọn lửa bốc cao, gió kéo đến rất mạnh làm cho mão hòa thượng bị lệch, ngài thản nhiên, lấy tay sửa lại và miệng vẫn tụng kinh và gõ mõ. Bá tánh đi xem rất đông, tranh nhau lấy trầm hương liệng vào hỏa đàn. Sau khi lửa tắt, quả nhiên trong đám tro và xá lợi, còn có một ngón tay của hòa thượng không cháy. Phật tử nhặt ngón tay, xá lợi và tro, xây tháp thờ bên cạnh chùa Thiên Mụ” (tr.297-288).

Nguồn gốc ra đời của câu “Ông Ba Bị” đã rõ.

Trở lại với “đời tám hoánh”, ta thấy cách giải thích của tập sách “Tiếng Việt ân tình” đã nêu trên có hợp lý? Không. Vì rằng nhân vật nào được chọn trong cụm từ quen thuộc phải có lý do, “có tích mới dịch ra tuồng”, nói như thế bởi cùng nghĩa “từ đời tám hoánh” ở Quảng Nam xưa lại có câu: “từ thời Bảo Đại còn tắm mưa” là ý nói đến thời điểm, khoảng thời gian ông ta du học về nước rồi lên ngôi vua, chứ nào phải nói khơi khơi. Trong khi đó, cuộc đời của ông Tám Hoánh không có chút tèo tẹo teo này liên qua đến ngữ nghĩa của câu nói “từ đời tám hoánh”.

Vậy nghĩa của nó thế nào? Xin thưa, “tám” trong ngữ cảnh này là chỉ tám cõi, tám phương, tám hướng, tám phía; còn hoánh là hiểu theo nghĩa mà “Đại Nam quấc âm tự vị” (1985) ghi nhận: “Rồi hoánh: đã rồi; hoánh chừng: xa chừng”. Khi nói “đi hoánh đế” là đi hẳn, thật đã đi, đi xa rồi. Người ta kết hợp cả từ này không chỉ ngụ ý thời gian mà còn hàm ý cả không gian về sự vật/ sự việc nào đó như ta đã biết.

Lê Minh Quốc

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/ong-ba-bi-tu-doi-tam-hoanh-i780225/