PGS.TS Trần Đình Phong: Đào tạo và thu hút nhân tài là yếu tố không thể tách rời

Vị trí hiện tại của Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ dù không phải tụt hậu nhưng cũng chưa đủ sức bứt phá để cạnh tranh với các quốc gia dẫn đầu.

.t1 { text-align: justify; }

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế tri thức và trí tuệ nhân tạo (AI) đang phát triển mạnh mẽ, cùng với nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, việc thu hút và trọng dụng người tài là yếu tố cấp thiết để tạo ra những đột phá trong xây dựng và phát triển đất nước nhất là khi thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị.

Ðể thu hút nhân tài, Việt Nam cần có môi trường đủ “hấp dẫn”

Liên quan đến nội dung trên, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH) đánh giá, Nghị quyết 57 được xem là bước ngoặt chiến lược trong việc thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam có tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao.

Theo báo cáo từ Ngân hàng Thế giới cho thấy, hiện nay, tính bình quân trên 1 triệu dân, Việt Nam chỉ có 757 người làm việc trong lĩnh vực khoa học công nghệ, trong khi đó, tại các nước thu nhập trung bình cao tỷ lệ này là 1.500 người/1 triệu dân.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Ảnh: Thi Thi.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Ảnh: Thi Thi.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong đánh giá: “Vị trí hiện tại của Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ dù không phải là tụt hậu nhưng cũng chưa đủ sức bứt phá để cạnh tranh với các quốc gia dẫn đầu. Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, Việt Nam cần tăng gấp đôi số lượng nhân lực khoa học công nghệ, từ 757 người lên khoảng 1.500 người trên một triệu dân. Như vậy, thực tế hiện nay cho thấy, chúng ta vẫn đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Do đó, đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những nhiệm vụ cấp thiết”.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong, đào tạo và thu hút là hai yếu tố không thể tách rời, bổ trợ lẫn nhau để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nếu chỉ tập trung đào tạo mà không thu hút được “người thầy giỏi” sẽ khó đạt được mục tiêu.

Không chỉ riêng Việt Nam, tại rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, tỷ lệ sinh viên trên giảng viên là yếu tố vô cùng quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo. Thầy Phong dẫn ví dụ, tại những đại học nghiên cứu hàng đầu như Đại học Cambridge hay Đại học Oxford, tỷ lệ này thường dưới 10, trong khi mức trung bình của các trường đại học nghiên cứu trên thế giới là 20 sinh viên/giảng viên. Để thu hút sinh viên theo học các ngành khoa học và công nghệ, bên cạnh việc đầu tư cơ sở vật chất, việc tuyển dụng, giữ chân giảng viên, nhà khoa học giỏi là rất cần thiết. Đảm bảo cả số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên sẽ đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao sức hút cũng như hiệu quả đào tạo.

Ðể thu hút nhân tài, Việt Nam cần có môi trường đủ “hấp dẫn” thu hút các chuyên gia từ nước ngoài đến làm việc cũng như người Việt Nam ở nước ngoài trở về phát triển khoa học công nghệ.

Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Nước này đã thành công trong việc thu hút nhân tài với chương trình “1.000 tài năng”, thông qua các chính sách ưu đãi hấp dẫn để mời gọi các chuyên gia, nhà khoa học xuất sắc trở về cống hiến. Nhờ đó, quốc gia này không chỉ thu hút được nhân tài người Trung Quốc mà còn trở thành điểm đến cho nhiều nhà khoa học phương Tây, tạo nên một môi trường nghiên cứu sôi động và cạnh tranh.

Tương tự, Singapore, dù không có lợi thế về cộng đồng người Singapore ở nước ngoài, nhưng họ đã xây dựng chính sách thu hút người tài không phân biệt quốc tịch, đồng thời có hệ sinh thái nghiên cứu tiên tiến, môi trường làm việc chuyên nghiệp và đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng khoa học.

 Sinh viên USTH. Ảnh: Thi Thi.

Sinh viên USTH. Ảnh: Thi Thi.

Từ kinh nghiệm thế giới cho thấy, Việt Nam cần nhanh chóng cải thiện chính sách, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường làm việc và đãi ngộ để thu hút nhân tài, từ đó xây dựng đội ngũ giảng viên, nhà khoa học đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế.

Thứ nhất, cần xây dựng tầm nhìn phát triển rõ ràng, giúp nhân tài nhận thấy tiềm năng tham gia vào các dự án đa dạng và ý nghĩa.

Nghị quyết 57 đã định hướng mục tiêu phát triển cho giai đoạn 2030-2045, tạo nền tảng cho các kế hoạch dài hạn. Tuy nhiên, song song với tầm nhìn chiến lược, Việt Nam cần triển khai các kế hoạch cụ thể trong ngắn hạn, từ 5 đến 10 năm, tập trung giải quyết các thách thức về môi trường nghiên cứu, như cải thiện cơ sở hạ tầng, tăng cường hỗ trợ tài chính và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học.

“Chỉ khi kết hợp được tầm nhìn dài hạn với hành động thiết thực, Việt Nam mới có thể trở thành điểm đến hấp dẫn cho nhân tài trong và ngoài nước. Đối với các trường đại học thì mỗi đơn vị cần có chiến lược riêng phù hợp với sứ mệnh và tầm nhìn của mình. Ví dụ, các trường đại học công lập định hướng nghiên cứu, có tính quốc tế hóa cao như USTH sẽ cần có chính sách thu hút nhân lực khác biệt với các trường đại học định hướng ứng dụng hay các trường đại học vùng, địa phương”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong nhìn nhận.

Thứ hai, xây dựng chính sách hấp dẫn để thu hút chuyên gia nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ tới làm việc tại Việt Nam. Chẳng hạn, đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, thân thiện sẽ giúp người nước ngoài dễ dàng hòa nhập và cống hiến.

Hiện nay, các thủ tục hành chính, đặc biệt trong tuyển dụng nhân lực nước ngoài còn mất nhiều thời gian, thủ tục phân tầng và yêu cầu tài liệu tương đối phức tạp. Quy trình hoàn chỉnh có thể mất nhiều tháng, “dễ gây nản lòng” các ứng viên. Do đó, việc cắt giảm ít nhất 30% các thủ tục không cần thiết sẽ không chỉ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chuyên gia quốc tế mà còn là bước tiến đáng kể trong cải cách hành chính. Đặc biệt, nếu các đơn vị sử dụng lao động được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm sẽ giúp xây dựng một môi trường làm việc ngày càng cởi mở và hiệu quả hơn.

Thứ ba, để thu hút nhân tài, thay vì duy trì cơ chế lương theo hệ số, chúng ta cần sớm chuyển đổi sang hệ thống trả lương theo vị trí việc làm phù hợp với năng lực và hiệu quả công việc. Điều này là cần thiết để cạnh tranh với khu vực tư nhân và các quốc gia trong khu vực.

Thứ tư, xây dựng môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp cùng hệ thống tài trợ kinh phí nghiên cứu phù hợp, nhằm tạo điều kiện cho người tài trở về triển khai, phát triển các chương trình nghiên cứu một cách hiệu quả, từ đó phát triển sự nghiệp học thuật của họ trong cộng đồng học thuật quốc tế.

Một trong những chỉ tiêu cụ thể đặt ra đến năm 2030 là chi tối thiểu 3% trong tổng chi ngân sách hằng năm và tăng dần theo yêu cầu cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong cho rằng, môi trường làm việc cần được cải thiện, hạ tầng nghiên cứu khoa học công nghệ cần được đầu tư, hiện đại hóa, đặc biệt là xây dựng đội ngũ trong đó có đội ngũ các nhà nghiên cứu trẻ, các nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, nghiên cứu sinh và học viên cao học chất lượng. Hiện nay, Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng nguồn lực này, khiến năng lực nghiên cứu còn hạn chế.

“Thử tưởng tượng một giáo sư giỏi về Việt Nam nhưng không có các nhà nghiên cứu trẻ tài năng, không có các nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, nghiên cứu sinh tiến sĩ, họ sẽ làm việc với ai? Hơn thế nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh về nguồn lực chất lượng cao ngày càng gay gắt, câu hỏi đặt ra không chỉ là "làm sao để thu hút nhân tài", mà là "Việt Nam có thể trở thành điểm đến hấp dẫn như thế nào để người tài tự tìm đến?".

 Ảnh minh họa: USTH.

Ảnh minh họa: USTH.

Thực tế cho thấy, khi Việt Nam trở thành nơi đáng để đến – với môi trường sống tốt, cơ hội nghề nghiệp rõ ràng và chính sách đãi ngộ phù hợp – người tài sẽ chủ động tìm tới, mở rộng cơ hội lựa chọn cho đất nước. Ngược lại, nếu chỉ dừng lại ở việc kêu gọi thu hút, sự lựa chọn sẽ có phần hạn chế.

Kinh nghiệm từ Trung Quốc và Singapore cho thấy, với các bước đi cụ thể và chính sách quyết liệt, việc thu hút nhân tài toàn cầu không phải là điều xa vời. Việt Nam hoàn toàn có thể làm được điều đó – nếu có chiến lược bài bản, cụ thể phù hợp với tầm nhìn dài hạn”, Phó Hiệu trưởng USTH nhìn nhận.

Bên cạnh đó, một số chuyên gia cho rằng, người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam cần được “đặc thù” để nước ta thu hút ngày càng nhiều chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành.

Về vấn đề này, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong, đối với những cá nhân có năng lực nổi trội và khả năng đóng góp lớn, chế độ đãi ngộ dành cho họ cũng cần được thiết kế mang tính vượt trội – tương xứng với giá trị mà họ mang lại.

Ngoài ra, không chỉ đãi ngộ, môi trường nghiên cứu và tiềm năng phát triển sự nghiệp mới là những yếu tố then chốt để thu hút và giữ chân nhân tài – đặc biệt là giới học thuật và chuyên gia quốc tế. Theo đó, một cộng đồng học thuật mạnh, đi kèm với điều kiện nghiên cứu thuận lợi, sẽ tạo ra sức hút bền vững hơn bất kỳ lời mời gọi nào.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong cũng nêu lên một vấn đề khác, đó là việc tổ chức các hội nghị khoa học quốc tế – một trong những hoạt động quan trọng để thúc đẩy giao lưu học thuật và nâng cao vị thế nghiên cứu của Việt Nam hiện vẫn đang gặp nhiều trở ngại do thủ tục hành chính.

Từ khâu xin cấp phép lao động cho các nhà khoa học nước ngoài đến các quy định liên quan đến tổ chức sự kiện học thuật, nhiều bước thủ tục còn phức tạp, thiếu linh hoạt, có thể làm giảm sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt cộng đồng nghiên cứu quốc tế.

Thầy Phong cho rằng: “Muốn trở thành điểm đến học thuật năng động, Việt Nam cần có chính sách thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các hội nghị quốc tế, qua đó góp phần kết nối tri thức toàn cầu và thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ”.

Song song, việc cải thiện mối liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp cũng trở thành một yêu cầu cấp thiết để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học công nghệ tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực giao tiếp quốc tế cho sinh viên cũng rất quan trọng. Đặt vấn đề, nếu một giáo sư quốc tế đến Việt Nam nhưng sinh viên không thể giao tiếp hay đọc hiểu tiếng Anh một cách hiệu quả, công tác giảng dạy và nghiên cứu sẽ gặp nhiều khó khăn.

Chính sách thu hút, giữ chân nhân tài của USTH có gì đặc biệt?

Chia sẻ thực tế tại đơn vị quản lý, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Phong thông tin, mỗi năm, USTH tiếp nhận khoảng 100 giáo sư thỉnh giảng từ Pháp tới giảng dạy và nghiên cứu, thông qua các chương trình hợp tác và nguồn lực hỗ trợ từ Chính phủ nước này. Ngoài ra, Trường còn mời được các giáo sư đến từ Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,... Sự tham gia của đội ngũ giảng viên quốc tế này đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của nhà trường.

Để tiếp tục chủ động tìm kiếm, mời các nhà khoa học, chuyên gia quốc tế tới Trường hợp tác đào tạo và nghiên cứu, đặc biệt trong những lĩnh vực như AI, vi mạch - bán dẫn, khoa học hạt nhân… tại kỳ họp lần thứ 11 ngày 24/4/2025, Hội đồng trường, Trường Đại học Khoa học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, đã thông qua chương trình mời giáo sư thỉnh giảng giai đoạn 2025-2030.

Theo đó, ngoài vé máy bay khứ hồi, nơi lưu trú, các giáo sư thỉnh giảng sẽ nhận được một khoản hỗ trợ kinh phí 600 USD/tuần trong thời gian làm việc tại trường.

Nhà trường kỳ vọng mỗi giáo sư thỉnh giảng sẽ làm việc tại USTH trong thời gian tối thiểu hai tuần và tối đa ba tháng. Chương trình cũng nhấn mạnh tới vai trò chủ động của các Khoa, Phòng thí nghiệm, Nhóm nghiên cứu tại USTH trong việc tìm kiếm, giới thiệu giáo sư thỉnh giảng đáp ứng với nhu cầu phát triển đào tạo và nghiên cứu của đơn vị.

 Ảnh minh họa: USTH.

Ảnh minh họa: USTH.

Cũng tại kỳ họp lần thứ 11, Hội đồng trường đã thông qua chương trình thu hút giảng viên, nghiên cứu viên tài năng vào làm việc tại trường giai đoạn 2025-2030. Chiến lược phát triển trường giai đoạn 2022-2030 xác định tới năm 2030 quy mô sinh viên là 5.000 và quy mô giảng viên, nghiên cứu viên là 250 người (đạt tỉ lệ 20 sinh viên/ 1 giảng viên). Giai đoạn 2025-2030, trường đặt mục tiêu tuyển mới 25 giảng viên, nghiên cứu viên tài năng, là những người đủ sức dẫn dắt các tập thể nghiên cứu xuất sắc.

Chương trình cũng sẽ thử nghiệm một quy trình tìm kiếm và tuyển dụng giảng viên-nghiên cứu viên mới, theo kinh nghiệm của các trường đại học Pháp và quốc tế. Nhà trường thành lập một “hội đồng tìm kiếm ứng viên” – một cách tiếp cận chủ động và mang tính chiến lược.

Hội đồng này bao gồm lãnh đạo USTH và các nhà khoa học uy tín, giàu kinh nghiệm của trường. Đặc biệt, USTH cũng mời thêm hai giáo sư là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào hội đồng, nhằm mở rộng mạng lưới và đánh giá “ứng viên” một cách toàn diện, chất lượng.

Theo lãnh đạo USTH, việc chỉ thông báo tuyển dụng và chờ hồ sơ gửi về không còn phù hợp trong bối cảnh cạnh tranh nhân tài gay gắt như hiện nay. Do đó, cơ sở giáo dục đại học này chọn cách chủ động xác định và tiếp cận các ứng viên tiềm năng – những người thực sự phù hợp và có thể tạo ra giá trị khác biệt.

Song song với việc thu hút nhân tài quốc tế, USTH cũng đặt mục tiêu xây dựng đội ngũ giảng viên chất lượng cao, thông qua các chương trình đào tạo dài hạn và có định hướng rõ ràng.

Theo lãnh đạo nhà trường, một hướng đi quan trọng là tuyển chọn những sinh viên tốt nghiệp đại học hoặc thạc sĩ có năng lực, cam kết với tầm nhìn của USTH để làm trợ lý nghiên cứu. Sau đó, họ sẽ được tiếp tục đào tạo và phát triển để trở thành giảng viên trong tương lai. Hoạt động này là một phần trong chiến lược phát triển tổng thể của USTH đến năm 2030, được nhà trường xây dựng từ năm 2022.

Hơn thế nữa, USTH là một trong số ít cơ sở giáo dục tại Việt Nam hỗ trợ sinh hoạt phí cho nghiên cứu sinh thông qua các hợp đồng trợ giảng. Đây cũng là chính sách được nhiều trường đại học trên thế giới áp dụng để thu hút các tài năng trẻ tiếp tục học tập, nghiên cứu sau đại học. Tham gia hoạt động trợ giảng còn là cơ hội để các nghiên cứu sinh phát triển kỹ năng và trải nghiệm môi trường học thuật một cách đầy đủ hơn so với chỉ thực hiện hoạt động nghiên cứu. Tất nhiên, các nghiên cứu sinh có thành tích xuất sắc còn được nhận thêm các học bổng khác theo chính sách học bổng của trường.

 Ảnh minh họa: USTH.

Ảnh minh họa: USTH.

Ngoài ra, nhiều nhóm nghiên cứu tại USTH còn trả học phí, hỗ trợ thêm sinh hoạt phí, hỗ trợ kinh phí tham dự các hội nghị, hội thảo khoa học,... để nghiên cứu sinh có điều kiện học tập và nghiên cứu tốt nhất.

Các nghiên cứu sinh tại USTH có thể lựa chọn làm nghiên cứu theo hình thức Cotutelle do 2 nhà khoa học Việt Nam và Pháp đồng hướng dẫn. Nghiên cứu sinh thực hiện một nửa thời gian nghiên cứu tại USTH và một nửa thời gian tại Pháp; bảo vệ thành công luận án nghiên cứu sinh sẽ được nhận 2 bằng tiến sĩ của USTH và của trường đối tác. Các nghiên cứu sinh không theo chương trình Cotutelle cũng có cơ hội đi thực tập ngắn hạn 3-6 tháng tại Pháp, theo chương trình đồng tài trợ giữa USTH và Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam.

Thi Thi

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/pgsts-tran-dinh-phong-dao-tao-va-thu-hut-nhan-tai-la-yeu-to-khong-the-tach-roi-post252162.gd