PGS-TS Từ Diệp Công Thành:: Cần kết nối để phát triển tài sản trí tuệ trong trường đại học và cộng đồng doanh nghiệp
Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đang ngày càng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khuyến khích, thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp (DN) và toàn xã hội. SHTT cũng là tấm giấy thông hành cho hàng hóa của Việt Nam khi tiến vào sân chơi toàn cầu và khẳng định thương hiệu Việt.
Nhưng làm thế nào để thúc đẩy phát triển tài sản trí tuệ trong trường đại học cũng như cộng đồng DN và những hạn chế nào đang gặp phải hiện nay? Đồng Nai cuối tuần đã có cuộc trao đổi với PGS-TS TỪ DIỆP CÔNG THÀNH, Giám đốc Trung tâm SHTT và chuyển giao công nghệ (IPTC), thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề này.
Doanh nghiệp mới bắt đầu từ nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp
* Một cách khái quát, SHTT có vai trò quan trọng như thế nào đối với hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và sự phát triển của DN, thưa ông?
- SHTT là tài sản đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế tri thức, tạo lợi thế cạnh tranh cũng như khẳng định tiềm lực khoa học công nghệ của mỗi quốc gia. Hiện nay, chúng ta cũng như toàn thế giới xem SHTT là công cụ thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Hầu như các tài sản vô hình như là tài sản trí tuệ nói chung mang lại khoảng 80-90% giá trị của một DN; phát triển SHTT chính là tiếp cận và nhanh chóng tiến vào nền kinh tế tri thức.
SHTT đang là một trong những đặc điểm quan trọng, cốt lõi trong hầu như tất cả các hiệp định thương mại song phương cũng như đa phương. Những hiệp định này càng ngày càng khắt khe, nhất là vấn đề SHTT trong thỏa thuận thương mại tự do hay thỏa thuận thương mại song phương. Việc bảo hộ SHTT là bắt buộc để chúng ta mở cánh cửa bước vào thị trường thương mại toàn cầu.
* Thời gian qua, Trung tâm IPTC đã kết nối với các DN, các tập đoàn thực hiện tư vấn về xác lập, bảo vệ, quản lý và phát triển giá trị tài sản trí tuệ. Theo ông, DN cần lưu ý, quan tâm các vấn đề gì?
- Thực tế, các DN chỉ mới tập trung vào bảo hộ SHTT cho nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp như bao bì sản phẩm, logo, thương hiệu. Ở Việt Nam, đa số là DN nhỏ và vừa nên hoạt động nghiên cứu của họ không nhiều, vì thế những tài sản hình thành từ hoạt động nghiên cứu để đăng ký được sáng chế và giải pháp hữu ích vẫn còn hạn chế.
Các DN cũng bước đầu nhận thấy những tranh chấp không cần thiết và việc đánh cắp tài sản trí tuệ nên số lượng đăng ký bảo hộ SHTT của họ đã tăng lên. Hy vọng trong thời gian tới, nếu DN hiểu biết đầy đủ hơn về SHTT, chẳng hạn như trả lời được câu hỏi: “Vấn đề của tôi có đăng ký được SHTT hay không?” thì họ sẽ sẵn sàng đăng ký.
* Vậy theo ông, Nhà nước cần có biện pháp, chính sách gì trong vấn đề này?
- Như chúng ta đã biết, khi bắt đầu tham gia các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thì Nhà nước buộc phải sửa luật SHTT theo lộ trình và phải nâng cấp thường xuyên để bảo hộ tài sản trí tuệ, tránh việc đánh cắp của các quốc gia có thương mại tự do với mình.
Đối với DN có giải pháp công nghệ, khi quỹ đầu tư nước ngoài muốn đầu tư thì họ sẽ quan tâm có tài sản trí tuệ không, nếu có thì họ đầu tư rất nhiều, nếu không có thì họ đầu tư rất giới hạn. Bản thân DN cũng nhận thấy được vấn đề của mình về lợi thế cạnh tranh, góp vốn tài sản… để thu hút đầu tư. Khi tài sản trí tuệ nhiều thì sẽ hình thành chiến lược quản lý tài sản trí tuệ cũng như khai thác tài sản trí tuệ một cách tối ưu.
“Đối với các DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, giá trị cốt lõi chính là tài sản trí tuệ. Bất kỳ DN nào cũng phải có công nghệ, tạo ra một sản phẩm mới, giải pháp mới và đó chính là tài sản trí tuệ. Nếu DN không đăng ký và bảo hộ ngay thì vô tình có thể đánh mất và vướng mắc các thủ tục pháp lý rắc rối về sau”.
Cần thu hẹp khoảng cách từ Nhà nước đến doanh nghiệp
* Theo ông việc phát triển tài sản trí tuệ và bảo hộ SHTT giữa chính sách đến hoạt động trên thực tế vẫn còn những rào cản nào?
- Để kết nối với DN, chúng tôi đã tiếp cận với Hiệp hội DN của Thành phố Hồ Chí Minh cũng như cộng đồng DN của các địa phương trong vùng. Cùng với việc tập huấn, cung cấp thông tin hữu ích về SHTT, chúng tôi cũng tư vấn cho DN trong việc xác lập, bảo vệ, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ. Một số DN nếu đủ trình độ, điều kiện thì có thể được hỗ trợ để chuyển thành DN khoa học công nghệ cũng như đăng ký các sáng chế, giải pháp hữu ích.
Tuy nhiên, trong quá trình tham gia các diễn đàn về SHTT thì tôi thấy có khoảng cách giữa Nhà nước và DN, khi hai bên chưa bắt tay nhau được.
* Ông có thể nói rõ hơn về khoảng cách này?
- Khoảng cách này đến từ lỗi của những đơn vị như chúng tôi. Hiện nay các công ty luật bên ngoài thực hiện đăng ký SHTT cho DN nhưng họ cũng chỉ làm nhãn hiệu, kiểu dáng. Còn những vấn đề đi vào khoa học, giải pháp công nghệ thì lại vướng bởi họ không có hiểu biết đầy đủ về giải pháp công nghệ đó. Bản thân DN cũng đặt ra câu hỏi như: vấn đề của tôi có đăng ký được sáng chế hay không?
Tại IPTC, chúng tôi có đội ngũ chuyên gia có thể thể hỗ trợ và giải đáp những câu hỏi giúp doanh nghiệp phát hiện tài sản trí tuệ của mình và tìm cách sử dụng nó. Khi đã xác định được tài sản trí tuệ, chúng tôi thay DN viết phát biểu bảo hộ tối ưu về phạm vi bảo hộ; viết bảng mô tả theo ngôn ngữ, văn phong của sáng chế và logic, khoa học; thực hiện thủ tục nộp, theo dõi hồ sơ và phản biện với thẩm định viên để được cấp bằng.
Vừa qua, chúng tôi đã đề xuất với các địa phương làm đề án phát triển tài sản trí tuệ cho địa phương và DN trên địa bàn và nhận được đồng tình lớn.
* Đối với các trường đại học, tình hình thực tế đang ra sao, thưa ông?
- Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, vào cuối năm 2023 cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam mới chỉ sở hữu khoảng gần 200 bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích trong nước và vài chục bằng sáng chế quốc tế. Con số này rất khiêm tốn.
Thời gian qua, các trường đại học đã bắt đầu nhận thức và quan tâm đến SHTT bởi nó liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, khẳng định năng lực, tiềm lực khoa học công nghệ của các trường. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện có các chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ cho tất cả các trường đại học thành viên thông qua đề án của Trung tâm IPTC cũng như đăng ký SHTT của thế giới. Chúng tôi cũng triển khai chương trình hợp tác ở nhiều trường đại học khác trên địa bàn như: Trường đại học Nguyễn Tất Thành, Trường đại học Văn Lang, Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh…
Tại Đồng Nai, chúng tôi vừa ký kết chương trình phối hợp với Trường đại học Đồng Nai. Tôi tin rằng sẽ tiếp cận và cùng phối hợp để thời gian tới tranh thủ sự ủng hộ của tỉnh để có những chương trình thúc đẩy phát triển tài sản trí tuệ cho các trường đại học ở Đồng Nai nói riêng và cộng đồng DN nói chung.