Phân cấp mạnh hơn, rõ hơn trong quản lý vốn nhà nước

Dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp vừa được Bộ Tài chính hoàn thiện trình Chính phủ. Tại dự thảo này, nhiều nội dung đã được tiếp thu, sửa đổi theo hướng phân cấp nhiều hơn, mạnh hơn trong hoạt động quản lý, đầu tư, quyết định nhân sự tại doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Nguồn: Bộ Tài chính. Đồ họa: Phương Anh

Nguồn: Bộ Tài chính. Đồ họa: Phương Anh

Thu gọn đối tượng áp dụng luật

Thời gian vừa qua, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến đông đảo các doanh nghiệp, cơ quan quản lý, chuyên gia… trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế. Trên cơ sở các ý kiến đóng góp, dự thảo lần 3 của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được tiếp thu, sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung, đặc biệt là liên quan đến tăng cường phân cấp.

Trước hết là ở đối tượng áp dụng luật, Luật số 69/2014/QH13 hiện hành đang theo hướng quy định Nhà nước quản lý theo pháp nhân doanh nghiệp, không quy định đối tượng áp dụng là doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước tại các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, từ đó dẫn đến các quy định về sử dụng vốn, can thiệp hành chính vào quá trình hoạt động của các doanh nghiệp này còn có sự lúng túng, chưa thống nhất.

Tiếp thu các ý kiến về chi tiền lương, tiền thưởng

Một nội dung được tiếp thu khác là về quy định việc chi tiền lương, tiền thưởng của người do cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn cử, giới thiệu, thuê làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp từ lợi nhuận sau thuế. Nội dung này đã được Chính phủ thông qua khi đề xuất xây dựng Luật xác định bổ sung nội dung chi này theo đúng tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW. Tuy nhiên khi có nhiều ý kiến tham gia Bộ Tài chính đã tiếp thu bỏ nội dung này, thay vào đó khoản chi này thực hiện hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp.

Bộ Tài chính đề xuất xác định đối tượng điều chỉnh tại dự thảo luật là doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư, bao gồm: doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp và “doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư khác là doanh nghiệp có vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp” nhằm đảm bảo nguyên tắc quản lý theo dòng vốn đầu tư, nhà nước thực sự đóng vai trò là chủ sở hữu vốn, nhà đầu tư vốn, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm với các nhà đầu tư khác trong doanh nghiệp, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW.

Tuy nhiên, quá trình lấy ý kiến tham gia có nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc đối tượng doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư khác, nên giao cho doanh nghiệp có nhà nước đầu tư trực tiếp quyết định. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Bộ Tài chính đã hoàn chỉnh dự thảo luật bỏ đối tượng doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư khác, quy định rõ doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành khác có vốn đầu tư của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn tại doanh nghiệp.

Giảm 21 đầu mối doanh nghiệp phải trình Thủ tướng Chính phủ

Trong phần quy định về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, các nội dung quy định tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở vốn với chức năng quản lý nhà nước, phân công rõ, phân cấp mạnh về công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, báo cáo, giải trình việc đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo hướng: Chính phủ thống nhất quản lý vốn đối với cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn, cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn quản lý theo phần vốn tại doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư. Thủ tướng Chính phủ thực hiện một số quyền của chủ sở hữu vốn tại một số doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư lớn, giữ vị trí, vai trò chủ đạo, then chốt, quan trọng quốc gia của nền kinh tế trong từng thời kỳ; còn lại giao cho cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn thực hiện các quyền hạn, nghĩa vụ như một nhà đầu tư và bình đẳng như các nhà đầu tư khác.

Đồng thời, dự thảo cũng xác định rõ nội dung quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; thực hiện phân công rõ, phân cấp mạnh và cụ thể các nội dung đầu tư vốn quan trọng, có số vốn đầu tư lớn, gắn với lựa chọn người quản lý vốn nhà nước đầu tư. Trên cơ sở đó quy định cụ thể thẩm quyền về công tác nhân sự, chiến lược kinh doanh, kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.

Cụ thể, về công tác nhân sự, Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, thuê, chấp thuận từ chức, miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng thuê, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, chủ tịch hội đồng quản trị tại doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ giữ vai trò chủ đạo, giữ vị trí chen chốt của nền kinh tế, quản lý hạ tầng quan trọng quốc gia.

Chính phủ quyết định danh sách cụ thể các doanh nghiệp trong từng thời kỳ, dự kiến như hiện nay gồm 7 doanh nghiệp: Công nghiệp viễn thông quân đội; Bưu chính viễn thông; Công nghiệp than khoáng sản; Dầu khí; Điện lực; Hóa chất, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam. Như vậy, so với hiện nay là giảm 21 đầu mối doanh nghiệp phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Quốc hội phê duyệt chủ trương dự án từ 20.000 tỷ đồng

Về mức thực hiện phân cấp quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư với vai trò chủ sở hữu vốn trước khi quyết định thực hiện đầu tư, tại dự thảo luật lần này, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh mức Quốc hội quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư vốn từ 15.000 tỷ đồng (ở dự thảo trước) lên 20.000 tỷ đồng trở lên. Mức này phù hợp với cơ sở hệ số trượt giá, tỷ lệ lạm phát từ khi Luật số 69/2014/QH13 được ban hành và tính đến yếu tố biến động trong tương lai khi luật mới có hiệu lực (từ năm 2026) trong thời gian ít nhất trên 5 năm.

Theo đó, Quốc hội quyết định phê duyệt chủ trương dự án đầu tư có tổng mức đầu tư từ 20.000 tỷ đồng trở lên. Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt chủ trương dự án đầu tư có tổng mức đầu tư từ 5.000 tỷ đồng đến dưới 20.000 tỷ đồng. Cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn quyết định phê duyệt chủ trương dự án đầu tư có tổng mức đầu tư từ 1.000 tỷ đồng đến dưới 5.000 tỷ đồng hoặc có tổng mức đầu tư bằng mức từ 50% vốn điều lệ ghi trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Đề xuất trích tối đa 80% lợi nhuận sau thuế cho quỹ đầu tư phát triển

Tại dự thảo trước đây của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đề xuất 3 giải pháp về tỷ lệ trích lập Quỹ Đầu tư phát triển tại doanh nghiệp từ lợi nhuận sau thuế và lựa chọn giải pháp 1 là trích tối đa 30% từ lợi nhuận sau thuế.

Sau khi tiếp thu ý kiến của các cấp có thẩm quyền, các doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề xuất 3 phương án.

Phương án 1 là trích tối đa 50% lợi nhuận sau thuế. Theo phương án này, ước tính số nộp ngân sách từ nguồn lợi nhuận, cổ tức được chia sẽ giảm 19.847 tỷ đồng (quyết toán thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2021 đã được Quốc hội phê chuẩn số nộp ngân sách từ cổ tức, lợi nhuận, lợi nhuận sau thuế là 69.463 tỷ đồng; trên cơ sở giả định việc trích quỹ đầu tư chiếm khoảng 70% nguồn thu này và ổn định trong thời kỳ sau này).

Phương án 2 là trích tối đa 80% lợi nhuận sau thuế. Theo phương án này, Bộ Tài chính ước tính số nộp ngân sách từ nguồn lợi nhuận, cổ tức được chia sẽ giảm 49.616 tỷ đồng.

Phương án 3 là để lại 100% lợi nhuận sau thuế, theo đề nghị của một số doanh nghiệp. Với phương án này, ước tính số nộp ngân sách từ nguồn lợi nhuận, cổ tức không còn, giảm 69.463 tỷ đồng.

Trong 3 phương án trên, Bộ Tài chính đề xuất thực hiện theo phương án 2, trích tối đa 80%. Số trích lập quỹ đầu tư phát triển theo phương án này có làm giảm số nộp NSNN nhưng không mất đi mà được để lại đầu tư vốn vào các doanh nghiệp, trong trường hợp cần thiết cơ quan có thẩm quyền vẫn quyết định nộp về NSNN, cơ quan soạn thảo cho biết.

Hoàng Yến

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/phan-cap-manh-hon-ro-hon-trong-quan-ly-von-nha-nuoc-159362-159362.html