Phân cấp thẩm quyền và luật hóa Nghị quyết 42: Tháo gỡ nợ xấu, khơi thông dòng vốn
Thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng sáng nay (29/5), các đại biểu Quốc hội đã ghi nhận sự đồng thuận mạnh mẽ đối với việc phân cấp thẩm quyền cho vay đặc biệt và luật hóa ba chính sách trong Nghị quyết 42/2017/QH14. Các đại biểu cũng làm rõ vai trò của dự thảo luật trong việc xử lý nhanh khủng hoảng thanh khoản, tháo gỡ nợ xấu, khơi thông dòng vốn, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để củng cố hệ thống ngân hàng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Quang cảnh nghị trường
Phân cấp thẩm quyền giúp chủ động xử lý rủi ro
Việc phân cấp thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt với lãi suất 0% và không có tài sản bảo đảm từ Thủ tướng Chính phủ sang Ngân hàng Nhà nước, theo quy định tại khoản 1, Điều 1, sửa đổi Điều 193 Luật các Tổ chức tín dụng, nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ các đại biểu Quốc hội. Đại biểu Trần Thị Thu Đông, Đoàn Bạc Liêu, cho biết quy định này cho phép Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng đưa ra quyết định trong các tình huống rủi ro hệ thống hoặc khủng hoảng thanh khoản, hỗ trợ các tổ chức tín dụng gặp khó khăn và giảm gánh nặng tài chính, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế biến động mạnh. Bà đánh giá cao tính linh hoạt của chính sách, giúp đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, khơi thông dòng tín dụng và phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Đại biểu Phạm Văn Hòa, Đoàn Đồng Tháp cũng cho rằng, việc chuyển thẩm quyền cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là bước tiến quan trọng, đảm bảo phân cấp, phân quyền và tăng cường trách nhiệm trong quản lý hệ thống ngân hàng. Ông nhận định rằng, chính sách cho vay đặc biệt với lãi suất 0% thể hiện vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần, góp phần ngăn chặn rủi ro và bảo vệ nguồn lực tài chính quốc gia.
Đại biểu Trần Anh Tuấn, Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh thì cho biết, quy định tại Điều 193 giúp Ngân hàng Nhà nước xử lý nhanh chóng các trường hợp cần vay đặc biệt, bất kể có tài sản bảo đảm hay không. Ông đánh giá cao tính linh hoạt của chính sách, cho phép đưa ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của từng tổ chức tín dụng, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và hỗ trợ các ngân hàng vượt qua khó khăn.
Đại biểu Nguyễn Quang Huân, Đoàn Bình Dương cũng cho rằng, quy định này phù hợp với tinh thần Nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị về tăng cường phân quyền và hiệu quả quản lý. Ông nhấn mạnh rằng, việc trao thẩm quyền mạnh mẽ cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giúp cơ quan này linh hoạt đáp ứng nhu cầu điều hành kinh tế, đặc biệt trong các tình huống khẩn cấp như rút tiền hàng loạt.
Cùng quan điểm, đại biểu Nguyễn Hữu Thông, Đoàn Bình Thuận cho rằng, quy định tại khoản 1, Điều 1, sửa đổi Điều 193, về phân cấp thẩm quyền cho Ngân hàng Nhà nước là bước tiến phù hợp, giúp tăng cường khả năng xử lý nhanh các vấn đề liên quan đến nợ xấu và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. Ông đánh giá cao sự linh hoạt của chính sách, cho phép Ngân hàng Nhà nước đưa ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế.
Luật hóa Nghị quyết 42, tháo gỡ nợ xấu, khơi thông dòng vốn
Việc luật hóa ba chính sách trong Nghị quyết 42/2017/QH14, bao gồm quyền thu giữ tài sản bảo đảm, kê biên tài sản, và hoàn trả tài sản bảo đảm, được các đại biểu Quốc hội đánh giá là bước tiến quan trọng để tháo gỡ nợ xấu, khơi thông dòng vốn và củng cố hệ thống ngân hàng.
Đại biểu Huỳnh Thị Phúc, Đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu, cho rằng, quy định tại Điều 198A về quyền thu giữ tài sản bảo đảm là điểm sáng của dự thảo, với các điều kiện, trình tự, thủ tục được luật hóa đầy đủ, giúp giảm chi phí và thời gian xử lý nợ xấu. Bà nhấn mạnh rằng, quy định này tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tổ chức tín dụng thực hiện quyền thu giữ dựa trên thỏa thuận hợp đồng, góp phần nâng cao hiệu quả xử lý nợ và bảo vệ quyền lợi của ngân hàng.
Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung, Đoàn Vĩnh Phúc, cho rằng, quyền thu giữ tài sản bảo đảm tại Điều 198A phù hợp với Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, bảo vệ quyền tài sản và thực thi hợp đồng kinh tế tư nhân. Bà đánh giá cao tính minh bạch của quy định, với các yêu cầu như thỏa thuận tự nguyện tại điểm b, khoản 2, và công khai thông tin tại điểm d, khoản 2, khoản 3, khoản 4, đảm bảo cân bằng quyền và trách nhiệm giữa khách hàng vay và tổ chức tín dụng. Bà cũng nhấn mạnh rằng, các quy định tại Điều 198A, 198B, và 198C tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, giúp tổ chức tín dụng xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường, đồng thời bảo vệ người gửi tiền, vì nguồn vốn cho vay chính là tiền gửi của dân.
Đại biểu Phạm Văn Hòa, Đoàn Đồng Tháp thì cho biết, quy định tại Điều 198B khẳng định quyền ưu tiên của tổ chức tín dụng đối với tài sản bảo đảm đã được thỏa thuận hợp pháp trong hợp đồng thế chấp. Ông đánh giá cao tính hợp lý của quy định, giúp tổ chức tín dụng xử lý nợ xấu hiệu quả, từ đó khơi thông dòng vốn bị ách tắc và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn mới.
Đại biểu Trần Văn Tiến, Đoàn Vĩnh Phúc cũng cho rằng, quy định tại Điều 198C về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng hoặc tang vật là bước tiến quan trọng giúp tháo gỡ tình trạng tài sản bị treo do liên quan đến vụ án hình sự hoặc vi phạm hành chính. Ông nhấn mạnh rằng quy định này tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức tín dụng xử lý nợ xấu, giảm đình trệ và nâng cao khả năng thu hồi vốn, từ đó hỗ trợ các ngân hàng luân chuyển dòng vốn hiệu quả hơn.
Theo đại biểu Nguyễn Hải Nam, Đoàn Thừa Thiên Huế, quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm tại Điều 198A là công cụ hữu hiệu để xử lý nợ xấu, phù hợp với các chính sách đã được thí điểm tại Nghị quyết 42. Ông nhấn mạnh rằng quy định này, với các điều kiện minh bạch và trình tự rõ ràng, giúp tổ chức tín dụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp, đồng thời tạo điều kiện khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.
Đại biểu Nguyễn Thị Sửu, Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết, dự thảo luật, với các quy định về xử lý nợ xấu tại Điều 198A, 198B, và 198C, là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của tổ chức tín dụng. Bà đánh giá cao tính minh bạch của các quy định, giúp tổ chức tín dụng xử lý nợ xấu hiệu quả, từ đó hỗ trợ khơi thông dòng vốn và bảo vệ nguồn lực tài chính quốc gia.
Tăng cường hành lang pháp lý, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
Các ý kiến tích cực tại hội trường đã làm rõ vai trò của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng trong việc phân cấp thẩm quyền và luật hóa Nghị quyết 42. Quy định về cho vay đặc biệt với lãi suất 0% và không có tài sản bảo đảm, cùng các chính sách xử lý nợ xấu, giúp Ngân hàng Nhà nước xử lý nhanh khủng hoảng thanh khoản, tháo gỡ nợ xấu và khơi thông dòng vốn. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước đến tháng 2/2025, tiền gửi của cư dân tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng 7,3 triệu tỷ đồng, là nguồn lực quan trọng cho nền kinh tế. Dự thảo luật, với các quy định linh hoạt và minh bạch, sẽ bảo vệ nguồn lực này, tạo niềm tin cho người gửi tiền và hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân. Sự đồng thuận của các đại biểu Quốc hội cung cấp nền tảng để dự thảo được hoàn thiện, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả khi áp dụng.