Phấn đấu đến 2030, có 8 CSGD đại học công lập trọng điểm lọt nhóm 200 ĐH hàng đầu châu Á

Chương trình mục tiêu quốc gia về GD&ĐT đặt mục tiêu đến 2030, phấn đấu đầu tư để khoảng 8 CSGDĐH công lập trọng điểm lọt nhóm 200 ĐH hàng đầu châu Á.

Sáng ngày 25/11, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.

Phấn đấu để 8 trường đại học công lập lọt nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á

Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho biết, chương trình được thực hiện 10 năm (từ năm 2026 đến năm 2035), chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 2026-2030: tập trung giải quyết các vấn đề hạn chế, thách thức đặt ra trong thời gian qua; thực hiện và hoàn thành toàn bộ hoặc hoàn thành một phần một số mục tiêu chủ yếu cần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được đề ra đến năm 2030 tại Nghị quyết số 71-NQ/TW và các quy định có liên quan.

Giai đoạn 2031-2035: tiếp tục xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra đến 2035.

 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn trình bày Tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. Ảnh: Media Quốc hội.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn trình bày Tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. Ảnh: Media Quốc hội.

Mục tiêu của chương trình đến năm 2030 phấn đấu đạt 4 nhóm mục tiêu cụ thể như sau:

Một là, từng bước chuẩn hóa hệ thống giáo dục mầm non, phổ thông. Theo đó, tập trung nguồn lực đầu tư hướng đến xây dựng kiên cố hóa 100% trường, lớp học; bảo đảm đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đạt chuẩn.

Đặc biệt chú trọng đầu tư các phòng học bộ môn, thực hành, trải nghiệm STEM/STEAM, không gian vui chơi, môi trường rèn luyện thể chất để thực hiện chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi và hoàn thành giáo dục bắt buộc hết trung học cơ sở.

Hoàn thành xây dựng mạng lưới trường phổ thông nội trú, nhà công vụ cho giáo viên tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phấn đấu đầu tư tối thiểu 30% cơ sở giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để thực hiện dạy tiếng Anh qua một số môn học và dạy học một số môn học bằng tiếng Anh.

Hai là, đầu tư trọng điểm cho 18 trường cao đẳng nghề từng bước hình thành 6 trung tâm quốc gia và 12 trung tâm vùng đào tạo nhân lực có kỹ năng nghề cao trong các ngành nghề kỹ thuật, công nghệ và các ngành phục vụ các chương trình, dự án chiến lược, trọng điểm quốc gia; đầu tư cho khoảng 30 trường cao đẳng nghề đào tạo các ngành nghề trọng điểm, mũi nhọn phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương.

Ba là, từng bước đầu tư chuẩn hóa, hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, mở rộng không gian phát triển cho các cơ sở giáo dục đại học hoạt động hiệu quả.

Tập trung đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, xây dựng trung tâm đào tạo, nghiên cứu xuất sắc tại các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm, cơ sở đào tạo giáo viên.

Phấn đấu đầu tư để hiện đại hóa cho khoảng 8 cơ sở giáo dục đại học công lập trọng điểm lọt nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á và tối thiểu có 1 cơ sở giáo dục đại học công lập lọt nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới ở một số lĩnh vực trọng điểm.

Phấn đấu đầu tư để hiện đại hóa toàn diện khoảng 30 cơ sở giáo dục đại học công lập, ưu tiên các trường trọng điểm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và đào tạo sau đại học gắn kết với nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo trong các ngành khoa học cơ bản, sư phạm, sức khỏe, kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược, công nghệ ưu tiên của công nghiệp 4.0, các ngành phục vụ các dự án trọng điểm quốc gia và hình thành 10 trung tâm đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp trong các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm.

Phấn đấu mở rộng không gian phát triển đầu tư hạ tầng kỹ thuật, cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp hướng tới đạt chuẩn cơ sở giáo dục đại học cho khoảng 50% các cơ sở giáo dục đại học công lập, trong đó ưu tiên mở rộng không gian phát triển ra ngoài khu vực nội đô của các cơ sở giáo dục đại học khu vực nội đô ở các thành phố lớn, khu kinh tế trọng điểm, có năng lực tuyển sinh và đào tạo các ngành mũi nhọn then chốt chất lượng cao.

Bốn là, đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học; chủ động chuyển đổi số và phát triển toàn diện người học để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và hội nhập quốc tế.

Nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, hội nhập quốc tế: Phấn đấu đạt 95% nhà giáo, cán bộ quản lý, 70% học sinh được bồi dưỡng về năng lực số, công nghệ giáo dục và trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý, giảng dạy và học tập; tối thiểu 30% cơ sở giáo dục triển khai và ứng dụng hiệu quả công nghệ số, công nghệ giáo dục và AI trong công tác quản lý, hỗ trợ dạy học và đổi mới sáng tạo. Phát triển năng lực đào tạo theo hướng hội nhập quốc tế trong các ngành, nghề trọng điểm và mũi nhọn.

Đối với giáo dục nghề nghiệp: ít nhất 50% nhà giáo giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm được bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề cao hơn một bậc so với yêu cầu chuẩn kỹ năng nghề hiện hành; 65% nhà giáo đạt chuẩn giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm theo trình độ tiệm cận chuẩn của các nước ASEAN-4 và G20.

Đối với giáo dục đại học: giảng viên giảng dạy các ngành trọng điểm được bồi dưỡng đạt chuẩn năng lực nghề nghiệp, chuẩn trình độ và học thuật tương đương chuẩn khu vực hoặc quốc tế, đáp ứng yêu cầu đào tạo, nghiên cứu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Cùng với đó, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân. Phấn đấu tối thiểu 30% cơ sở giáo dục phổ thông có giáo viên đủ năng lực giảng dạy một số môn khoa học tự nhiên và STEM/STEAM bằng tiếng Anh và triển khai thí điểm dạy học bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai ở một số môn.

100% các trường đại học sư phạm trọng điểm có đủ năng lực triển khai đào tạo và bồi dưỡng giáo viên giảng dạy các môn khoa học tự nhiên và STEM/STEAM bằng tiếng Anh.

Ngoài ra, phát triển tài năng, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và phát triển toàn diện người học. Phát triển tài năng, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược, kỹ thuật then chốt. Phát triển tài năng thể thao, văn hóa, hướng đến giáo dục toàn diện cho người học….

Đến năm 2035, Chính phủ phấn đấu: Một là, đầu tư xây dựng 100% các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông đạt chuẩn về cơ sở vật chất; 100% cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Hai là, rà soát quy hoạch, hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm non. Đầu tư cho khoảng 60 trường cao đẳng nghề chất lượng cao tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4 và 06 trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20 (lựa chọn từ các trường được đầu tư thành trung tâm quốc gia, trung tâm vùng).

Ba là, rà soát quy hoạch, hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, tiếp tục đầu tư để hướng đến hoàn thành 100% các cơ sở giáo dục đại học công lập trong quy hoạch đạt chuẩn vào năm 2035; đầu tư đồng bộ cho một số cơ sở giáo dục đại học công lập trọng điểm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và đào tạo sau đại học các lĩnh vực khoa học cơ bản, sư phạm, sức khỏe, kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược, công nghệ ưu tiên của công nghiệp 4.0; đầu tư, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học công lập, đóng góp vào phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp quốc gia.

Bốn là, tiếp tục bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, năng lực và sự chủ động của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học với các nhiệm vụ trọng tâm:

Phát triển năng lực chuyên sâu trong ứng dụng công nghệ số, giảng dạy tích hợp liên môn và năng lực tổ chức dạy học bằng tiếng Anh đối với các môn khoa học. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ chuyên gia nòng cốt có khả năng dẫn dắt đổi mới sư phạm tại địa phương và toàn hệ thống.

Hoàn thiện và nhân rộng mô hình đổi mới giáo dục phát triển năng lực sáng tạo, tư duy phản biện và hội nhập quốc tế đã được thí điểm thành công trong giai đoạn 2026 - 2030: Trường học thông minh, ứng dụng AI và dữ liệu lớn trong quản lý, dạy học, đánh giá và hỗ trợ người học, dạy học các môn học bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, với quy mô mở rộng sang nhiều địa phương, nhiều cấp học và lĩnh vực chuyên môn, giáo dục STEM/STEAM toàn diện, kết nối với các trung tâm nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ sở đổi mới sáng tạo nhằm phát triển tư duy hệ thống, sáng tạo và năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh, sinh viên, giáo dục trải nghiệm - hướng nghiệp, kỹ năng sống cho người học.

Tăng cường kết nối hệ sinh thái giáo dục - nghiên cứu - đổi mới sáng tạo, thúc đẩy sự tham gia của các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ và tổ chức quốc tế trong đào tạo giáo viên, phát triển chương trình và cung cấp học liệu số chất lượng cao.

Chi hơn 580 nghìn tỷ đồng cho chương trình

Tổng các nguồn lực huy động để thực hiện Chương trình giai đoạn 2026-2035 khoảng 580.133 tỷ đồng.

Trong đó, vốn ngân sách Trung ương là 349.113 tỷ đồng (chiếm 60,2%), vốn ngân sách địa phương 115.773 tỷ đồng (chiếm 19,9%) và vốn đối ứng của các cơ sở giáo dục 89.073 tỷ đồng (chiếm 15,4%). Vốn huy động hợp pháp khác dự kiến 26.173 tỷ đồng (chiếm 4,5%).

Chương trình được phân kỳ thực hiện trong 2 giai đoạn, trong đó tổng vốn để thực hiện giai đoạn 2026-2030 tối thiểu 174.673 tỷ đồng và 405.460 tỷ đồng cho giai đoạn 2031-2035.

Thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban tán thành với sự cần thiết đầu tư chương trình.

Ủy ban tán thành mục tiêu chung với hai vấn đề lớn là hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng giáo dục và đào tạo; bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục.

 Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh. Ảnh: Media Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh. Ảnh: Media Quốc hội.

Về mục tiêu cụ thể, Ủy ban đề nghị cần nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng điều kiện bảo đảm tính khả thi để cân nhắc các chỉ tiêu 30% (đến năm 2030) và 100% (đến năm 2035) số cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học (bao gồm cơ sở vật chất, nguồn cung cấp đội ngũ giáo viên giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh).

Về nguồn vốn ngân sách Trung ương, đề nghị ưu tiên đầu tư trọng tâm, trọng điểm; bố trí vốn sát với mục tiêu và khả năng giải ngân, bảo đảm khả thi, hiệu quả.

Về ngân sách địa phương, cần làm rõ căn cứ xác định tỉ lệ, cơ cấu vốn đối ứng từ ngân sách địa phương; khuyến khích các địa phương có nguồn thu ngân sách cao chủ động bố trí đầu tư cho giáo dục.

Mộc Trà

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/phan-dau-den-2030-co-8-csgd-dai-hoc-cong-lap-trong-diem-lot-nhom-200-dh-hang-dau-chau-a-post256166.gd