Phát huy vai trò trí thức khoa học và công nghệ trong thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW
Thời gian qua, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đang được Chính phủ và các bộ ngành, địa phương triển khai thực hiện quyết liệt. Phóng viên báo Tin tức và Dân tộc đã có cuộc trao đổi với TS. Lê Công Lương, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam xung quanh chủ đề này.
Ông đánh giá thế nào về công cuộc chuyển đổi số của Việt Nam thời gian qua, thưa ông?
Chuyển đổi số ở Việt Nam bắt đầu hình thành từ những năm 2000 với tin học hóa và Chính phủ điện tử nhưng chỉ từ khi có Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Quyết định 749/QĐ-TTg (2020) Quyết định 749/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" thì công cuộc chuyển đổi số ở Việt Nam mới trở thành chương trình mục tiêu quốc gia.

TS. Lê Công Lương, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
Chuyển đổi số ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Mặc dù còn non trẻ nhưng trên nhiều lĩnh vực chúng ta đã thấy hình bóng của xã hội số, chính quyền số và kinh tế số đang hình thành và phát triển. Nếu như trước đây, mỗi lần chuyển tiền, chúng ta phải đi hàng cây số đến ngân hàng hoặc bưu điện và phải mất thời gian lâu. Nhưng bây giờ, ngay cả chị bán rau, chị bán bánh mì thực hiện chuyển tiền và nhận tiền nhanh chóng qua ứng dụng app trên di động.
Với Chính phủ điện tử, chính quyền số việc điều hành hoạt động; giải quyết dịch vụ công, thủ tục hành chính đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Trong nhiều lĩnh vực như bảo hiểm xã hội, ngân hàng, việc ứng dụng, chuyển đổi số của chúng ta đã bắt kịp thế giới. Gần đây, Bộ Công an đã ứng dụng chuyển đổi số vào việc quản lý công dân, quản lý qua thẻ căn cước qua ứng dụng VNeID đã tạo ra sự thuận lợi, hiệu quả, tiết kiệm thời gian.
Một nền kinh tế số với sự liên kết các nhà khoa học, các trung tâm nghiên cứu với các doanh nghiệp, các chuỗi cung ứng toàn cầu đã có xự phát triển mạnh mẽ. Những điều đó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thúc đẩy kinh tế số phát triển.
Chúng ta đang hướng tới xã hội số, tức là những người dân ứng dụng công nghệ thông tin vào đời sống hằng ngày, bằng cách thay đổi tư duy, thay đổi lối sống từ mua bán trực tiếp sang online. Tôi ấn tượng nhất là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào các lĩnh vực của đời sống, từ khám, chữa bệnh đến ứng dụng trí tuệ nhân tạo đưa ra những chuẩn đoán, những phác đồ điều trị. Hay trong ứng dụng vào giáo dục, đào tạo, chúng tôi thấy xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc soạn giáo án, chuẩn bị đề bài, chuẩn bị cơ sở dữ liệu đề thi, chấm thi… Điều này giúp ích rất nhiều cho giáo viên, học sinh.
Đặc biệt với sự ra đời của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 9/1/2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 193/2025/QH15 ngày 19/2/2025 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, chúng tôi tin rằng với đà phát triển như hiện nay, Việt Nam sẽ bắt kịp thế giới trong công tác chuyển đổi số.
Trong lĩnh vực ứng dụng khoa học công nghệ, việc thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học hiện vẫn đang còn khó, theo ông vì sao?
Thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học là một khâu đặc biệt quan trọng trong chuỗi giá trị khoa học - công nghệ - đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu khoa học chỉ thực sự có ý nghĩa khi kết quả được đưa vào thực tiễn, tạo ra sản phẩm, dịch vụ phục vụ đời sống. Thương mại hóa giúp biến kết quả nghiên cứu (sáng chế, giải pháp, công nghệ mới) thành hàng hóa, dịch vụ có giá trị, góp phần tăng trưởng GDP.

Ứng dụng công nghệ mới tại bệnh viện. Ảnh: TTXVN
Đối với các sản phẩm, các công trình nghiên cứu khoa học không thương mại được do thiếu sự gắn kết giữa các trung tâm nghiên cứu, các nhà khoa học, với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Đây là vấn đề rất đáng quan ngại hiện nay.
Với những người làm công tác quản lý khoa học, chúng tôi luôn luôn đặt ra yêu cầu có tính chất bắt buộc: Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cho ai, nghiên cứu vì mục đích gì, nghiên cứu xong bàn giao cho ai sử dụng?
Doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học đã gắn với thực tiễn nhưng ở một số trường, viện nhiều công trình làm xong đang xếp lại, cất vào tù. Để tháo gỡ vấn đề này, theo tôi nghĩ cần phải gắn kết chặt chẽ giữa các trung tâm, trường, viện với doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nhà nước chỉ đóng vai trò là định hướng.
Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để Nghị quyết số 57-NQ/TW đi vào cuộc sống, đội ngũ trí thức đóng vai trò như thế nào, thưa ông?
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc, đội ngũ trí thức khoa học công nghệ (KH&CN) có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện trên nhiều lĩnh vực:
Trí thức là lực lượng nòng cốt kiến tạo tri thức và đổi mới sáng tạo, là trung tâm của sự phát triển kinh tế tri thức, trực tiếp tạo ra các giá trị mới dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là lực lượng tiên phong trong nghiên cứu, làm chủ công nghệ lõi, công nghệ cao, góp phần nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Với công tác tham mưu chiến lược và hoạch định chính sách phát triển, đội ngũ trí thức KH&CN tham gia vào công tác tư vấn, phản biện, góp ý xây dựng đường lối, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Trí thức giúp kết nối khoa học với thực tiễn, chuyển hóa tri thức thành động lực phát triển, bảo đảm định hướng phát triển nhanh và bền vững.
Trí thức là lực lượng dẫn dắt chuyển đổi số và công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trí thức KH&CN giữ vai trò đầu tàu trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, xây dựng kinh tế số, xã hội số. Các nghiên cứu, giải pháp khoa học góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Đối với các vấn đề thách thức toàn cầu và trong nước, đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng trong ứng phó với biến đổi khí hậu, khủng hoảng năng lượng, an ninh lương thực, sức khỏe cộng đồng… Họ là lực lượng cung cấp tri thức khoa học để đất nước chủ động thích ứng với bối cảnh mới, tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức.
Trí thức góp phần lan tỏa giá trị tri thức, xây dựng văn hóa và con người Việt Nam mới, không chỉ đóng góp về chuyên môn, đội ngũ trí thức còn lan tỏa tri thức, góp phần bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao, xây dựng xã hội học tập, phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập.
Có thể nói, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trí thức KH&CN là trụ cột quan trọng, vừa là “nguồn lực”, vừa là “động lực” để đưa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, hiện thực hóa khát vọng hùng cường.
Thế giới hình thành những xu thế mới về phát triển khoa học và công nghệ. Các cơ chế chính sách của Nhà nước, của ngành cần có sự linh hoạt và đặc thù như thế nào để tạo không gian cho các nhà khoa học thỏa sức sáng tạo, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ, thưa ông?
Để tạo điều kiện cho các nhà khoa học thỏa sức sáng tạo, cơ chế và chính sách của Nhà nước, của ngành cần có sự linh hoạt, đột phá và đặc thù trên một số phương diện sau gồm: Cơ chế tài chính và đầu tư nghiên cứu khoa học, cần đổi mới cơ chế cấp phát kinh phí nghiên cứu theo hướng minh bạch, linh hoạt, gắn với hiệu quả và đầu ra của đề tài; xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm cho nghiên cứu khoa học - công nghệ, khuyến khích thương mại hóa sản phẩm; tăng cường hỗ trợ các dự án nghiên cứu của nhà khoa học trẻ, khởi nghiệp sáng tạo.
Với chính sách trọng dụng và đãi ngộ nhân tài, có cơ chế tuyển chọn, sử dụng nhân lực KH&CN theo năng lực thực sự, không cứng nhắc bằng thâm niên hay bằng cấp. Chính sách đãi ngộ xứng đáng để giữ chân nhân tài, tránh tình trạng “chảy máu chất xám”, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao.
Môi trường nghiên cứu và sáng tạo cởi mở cần giảm thủ tục hành chính rườm rà trong quản lý khoa học, tạo không gian tự do học thuật, tự do sáng tạo. Khuyến khích hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ gắn kết với doanh nghiệp. Tạo điều kiện hội nhập quốc tế cho nhà khoa học trẻ bằng hỗ trợ tham gia các chương trình trao đổi, đào tạo, hội nghị khoa học quốc tế. Có chính sách khuyến khích công bố quốc tế, liên kết nghiên cứu với các nhóm hàng đầu thế giới.
Nói ngắn gọn, cơ chế chính sách cần linh hoạt - thông thoáng - khuyến khích sáng tạo, vừa bảo đảm tính đặc thù của hoạt động khoa học (rủi ro cao, chu kỳ dài), vừa khơi dậy tiềm năng sáng tạo to lớn của đội ngũ trí thức, đặc biệt là thế hệ trẻ, để họ dấn thân, cống hiến và tạo ra những giá trị mới cho đất nước
Xin trân trọng cảm ơn ông!