Phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam: Từng bước chuyển mình từ gia công trở thành mắt xích chiến lược trong chuỗi cung ứng toàn cầu
Trong suốt một thập kỷ qua (giai đoạn 2015-2025), công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đã được xác định là một trong những lĩnh vực then chốt trong chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa quốc gia.
Tạo nền tảng vững chắc để hình thành các chuỗi cung ứng nội địa
Nếu giai đoạn 2010-2015 chỉ là bước khởi đầu về mặt nhận thức và chính sách, thì chặng đường 2015-2025 đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc và sự hoàn thiện không ngừng của hệ thống chính sách, tạo nền tảng vững chắc để hình thành các chuỗi cung ứng nội địa và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt.
Nghị định 111/2015/NĐ-CP (năm 2015) được xem là bước ngoặt chính sách đầu tiên, quy định rõ ràng về khái niệm CNHT và xác định 6 nhóm ngành công nghiệp ưu tiên (dệt may, da giày, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo, sản phẩm công nghệ cao) với 55 loại sản phẩm được hưởng cơ chế ưu đãi về đầu tư, tín dụng và đào tạo nhân lực. Văn bản này đã mở đường cho hàng loạt doanh nghiệp nội địa tiếp cận chính sách ưu đãi, tạo điều kiện để họ tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn FDI.

Ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã từng bước chuyển mình, phát triển về cả chất lượng sản phẩm và số lượng doanh nghiệp trong giai đoạn vừa qua. Ảnh: PV
Tiếp theo, Nghị quyết 115/NQ-CP năm 2020 đánh dấu giai đoạn mở rộng quy mô và chuyển đổi số. Nghị quyết này không chỉ đưa ra các mục tiêu cụ thể mà còn tạo ra một cú hích tài chính lớn thông qua chính sách cấp bù chênh lệch lãi suất tối đa 5%/năm cho các dự án vay vốn trung và dài hạn sản xuất sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển. Đây là một cơ chế hỗ trợ hiếm có, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Chính phủ nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tái đầu tư và đổi mới công nghệ.
Cùng với đó, Nghị định 57/2021/NĐ-CP bổ sung ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, và gần đây nhất là Quyết định 71/QĐ-TTg (tháng 1/2024) sửa đổi Chương trình phát triển CNHT giai đoạn 2016-2025, đã tăng cường nguồn lực tài chính trực tiếp, hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, tư vấn cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ, và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, IATF, và ESG. Quyết định 71 cũng nâng cao vai trò điều phối của Bộ Công Thương và khuyến khích các địa phương chủ động bố trí ngân sách phát triển CNHT riêng.
Mới đây nhất, với việc ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 1/9/2025), sửa đổi, bổ sung Nghị định 111, đã chính thức đưa yếu tố chuyển đổi xanh và chuyển đổi số vào trọng tâm của hoạt động CNHT. Nghị định này mở rộng đối tượng hỗ trợ sang các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, sử dụng vật liệu tái chế, giảm phát thải CO₂, đồng thời bổ sung ưu đãi tín dụng xanh và hỗ trợ chứng nhận tiêu chuẩn ESG.
Hệ thống chính sách này đã giúp CNHT Việt Nam dần đi từ phụ thuộc sang từng bước làm chủ, từ sản xuất đơn lẻ đến liên kết chuỗi, và từ tăng trưởng theo số lượng sang phát triển theo chất lượng xanh. Nhiều doanh nghiệp nội địa đã chuyển mình, có khả năng cung ứng sản phẩm chất lượng cao cho các tập đoàn toàn cầu, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về năng lực kỹ thuật và môi trường.
Góp phần ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững
Sự phát triển của CNHT trong 10 năm qua không chỉ mang lại lợi ích về mặt công nghiệp mà còn góp phần quan trọng vào sự ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài nhấn mạnh, CNHT đã góp phần phát triển nhiều ngành công nghiệp chủ lực, giúp Việt Nam tăng trưởng xuất siêu đáng kể, từ 2 tỷ USD năm 2017 lên hơn 28 tỷ USD trong giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng thông qua các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, và RCEP, cùng với xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng đang diễn ra mạnh mẽ tại Đông Nam Á, CNHT Việt Nam đóng vai trò then chốt để trở thành mắt xích quan trọng gắn kết các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Mục tiêu Chiến lược đến năm 2030 đã được Bộ Công Thương xác định rất rõ ràng, trong đó nâng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành chế biến, chế tạo lên 45-50%; Ít nhất 70% doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí xanh và tuần hoàn; Hình thành tối thiểu 5 trung tâm CNHT vùng tại các cực tăng trưởng lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Đà Nẵng và Cần Thơ.
Giám đốc Công ty NC Network Việt Nam, Bùi Thị Hồng Hạnh đánh giá, từ năm 2006 khi tham gia vào ngành này, số lượng doanh nghiệp rất ít và đa số là doanh nghiệp nhà nước. Thời điểm ấy, khi hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật Bản tìm doanh nghiệp để đặt hàng thì gặp rất nhiều khó khăn. Sau đó, JETRO cũng cập nhật thường niên Sách trắng về doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ - những doanh nghiệp có thể tham gia chuỗi cung ứng cho các nhà mua Nhật Bản. Những năm đầu tôi tham gia (khoảng năm 2011) chỉ có hơn 100 doanh nghiệp. Đến năm vừa rồi, theo khảo sát trong Sách trắng của JETRO, chúng tôi đã có hơn 300 doanh nghiệp và hầu như những doanh nghiệp ấy đều là doanh nghiệp tốt, đã có đơn hàng xuất cho FDI hoặc xuất khẩu.
Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam khi mới thành lập chỉ có hơn 40 hội viên, nhưng đến bây giờ số hội viên chính thức, tức là những hội viên tham gia đầy đủ hoạt động và nộp phí đều đặn, đã lên tới gần 400 doanh nghiệp trên cả nước. Nếu tính cả những hội viên rất nhỏ, quy mô 10 người và Hiệp hội đang khuyến khích tham gia (chưa yêu cầu nộp phí), thì con số phải hơn 700 doanh nghiệp.
Đại diện một số doanh nghiệp CNHT cho biết, với cơ chế chính sách đã ban hành, các đơn vị sản xuất tiếp tục phát triển nhanh chóng, mở rộng kết nối với các đối tác nước ngoài, trở thành các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng, đặc biệt với sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công thương, Cục Công nghiệp đã triển khai nhiều đề án hỗ trợ cho doanh nghiệp. Giai đoạn 5 năm qua là giai đoạn phát triển cả về chất và lượng của nhiều doanh nghiệp CNHT với việc được bồi dưỡng kiến thức, tập huấn và nhiều ưu đãi từ Đề án phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước.
Để CNHT tiếp tục phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, đại diện doanh nghiệp cũng kiến nghị Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật và khu công nghiệp chuyên dụng. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của các cơ quan chức năng trong việc theo dõi, đánh giá và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế (như chứng nhận ESG) nhằm đảm bảo sự minh bạch, hiệu quả và đồng bộ của chuỗi cung ứng.
Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cũng kiến nghị cần tiếp tục triển khai thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong giai đoạn mới. Trong đó, ưu đãi về chính sách cho thuê nhà xưởng, mua hoặc thuê thì có giải pháp trả dần,…











