Phát triển điện gió ngoài khơi: Nên đặt ra các mục tiêu ngắn hạn
Theo ông Stuart Livesey, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh nên đề ra các mục tiêu ngắn hạn cho điện gió ngoài khơi để củng cố niềm tin của nhà đầu tư, vì nhà đầu tư có năng lực sẵn sàng rời thị trường cho đến khi các điều kiện kinh doanh rõ ràng.
Câu chuyện phát triển nguồn điện gió ngoài khơi lại nóng lên khi ở dự thảo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, Bộ Công thương đề xuất phát triển nguồn điện gió ngoài khơi (ĐGNK) sau năm 2030, thay vì mục tiêu có khoảng 6.000MW (6GW) trong 5 năm tới như dự định ban đầu.
Báo Giao thông trao đổi với ông Stuart Livesey, Tổng giám đốc Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn và đại diện của CIP tại Việt Nam xung quanh đề xuất trên.
Là một "ông lớn" phát triển điện gió ngoài khơi trên thế giới, ông đánh giá thế nào về những thay đổi trong đề xuất phương án phát triển điện gió ngoài khơi của Bộ Công thương?
Thời gian đầu, khi mới tiếp cận thị trường, CIP tin tưởng rằng có thể sớm phát triển dự án ĐGNK tại Việt Nam và hoàn thành vào năm 2030 như mục tiêu của Quy hoạch điện VIII.

Ông Stuart Livesey, Tổng giám đốc Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn.
Thế nhưng, do những chậm trễ trong việc hoạch định chính sách, cùng với nhu cầu về nguồn lực cho chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng tăng, trong khi các bước chuẩn bị cho việc phát triển dự án như việc thực hiện khảo sát các dự án điện gió ngoài khơi, vẫn chưa được khởi động, nên mục tiêu hoàn thành 6GW công suất điện gió ngoài khơi vào năm 2030 hiện nay không còn khả thi nữa, bởi một dự án ĐGNK thường mất từ 7-8 năm tính từ giai đoạn phát triển đến khi đưa vào vận hành thương mại.
Chính vì vậy, chúng tôi hoàn toàn hiểu được khi Bộ Công thương chỉnh sửa mục tiêu đưa vào vận hành thương mại của các dự án điện gió ngoài khơi sau năm 2030.
Tuy nhiên, tôi cho rằng, cần làm rõ việc lùi thời gian vận hành thương mại sau năm 2030, không có nghĩa là trì hoãn phát triển ĐGNK đến năm 2030.
Bởi lẽ, việc xác định mục tiêu công suất 0 GW ĐGNK vào năm 2030 dễ dẫn đến cách hiểu rằng: Sẽ không có dự án ĐGNK nào được triển khai từ nay cho đến sau năm 2030. Nếu hiểu như vậy sẽ gây ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư và các khách hàng có nhu cầu tiêu thụ điện xanh tại Việt Nam.
Các nhà đầu tư có năng lực, trong đó có CIP, có thể sẽ phải xem xét lại kế hoạch kinh doanh và cân nhắc rời khỏi thị trường hoặc đóng băng khoản đầu tư của họ tại Việt Nam, cho đến khi các điều kiện kinh doanh cho ĐGNK rõ ràng với một lộ trình minh bạch hơn.
Trên thực tế, trong những năm qua, hầu hết các đối thủ cạnh tranh quốc tế của chúng tôi đã rời khỏi thị trường Việt Nam vì lý do nêu trên.
Do đó, Quy hoạch điện VIII sửa đổi nên đề ra các mục tiêu ngắn hạn cho ĐGNK để củng cố niềm tin của nhà đầu tư và đảm bảo triển khai dự án suôn sẻ, với hướng dẫn hoàn thành và khai thác công suất ĐGNK từ năm 2031 đến 2035.
Vậy, mục tiêu ngắn hạn nên được thực hiện ra sao, thưa ông?
Chỉ khi dự án đầu tiên được bắt đầu xây dựng ngay trong năm 2025, thì mới có thể đưa vào vận hành thương mại (phát điện) sớm nhất vào năm 2031 hoặc 2032.
Vì thế, để đảm bảo đạt được mục tiêu mới này, cần thực hiện ngay công tác khảo sát và xác định danh sách các khu vực phát triển ĐGNK ngay trong năm nay.
Kế hoạch phát triển từ 6-17GW ĐGNK sẽ cần phải đi theo từng giai đoạn để đảm bảo có đủ tàu (chuyên dụng để lắp tua-bin), trong điều kiện thời tiết thuận lợi, cũng như khả năng đáp ứng của chuỗi cung ứng (đặc biệt là tuabin gió, trạm biến áp ngoài khơi và cáp ngầm chạy dưới biển).

Một dự án ĐGNK thường mất từ 7-8 năm tính từ giai đoạn phát triển đến khi đưa vào vận hành thương mại. Ảnh: CIP (trong ảnh là một dự án ĐGNK tại Đức).
CIP khuyến nghị, cần triển khai các dự án theo từng giai đoạn, để hoàn thành khoảng 1-1,5 GW mỗi năm. Đi đôi với đó là các cam kết về mặt luật pháp để tạo niềm tin vững chắc cho ngành công nghiệp điện gió phát triển.
Việc đặt mục tiêu sớm xây dựng và vận hành các dự án ĐGNK là nguồn động lực lớn cho các nhà đầu tư, cũng như các cơ quan hoạch định chính sách, nhằm sớm hoàn thiện khung pháp lý và các cơ chế để phát triển ĐGNK. Điều này cũng sẽ tạo nền tảng vững chắc cho các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam bắt đầu mở rộng quy mô nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước.
Kịch bản phát triển ĐGNK cũng cần xét đến yếu tố nguồn cung tuabin điện gió và các thiết bị khác cho dự án ĐGNK.
Tại châu Âu, dự kiến nhu cầu phát triển ĐGNK sẽ vượt quá năng lực sản xuất tháp điện gió trước năm 2028; đến năm 2029, nhu cầu thép cho xây dựng ĐGNK dự kiến lên đến 1,7 triệu tấn thép, trong khi năng lực sản xuất chỉ đạt 1,3 triệu tấn. Nguồn cung tàu lắp đặt tuabin, lắp đặt cáp ngầm cũng thường xuyên trong tình trạng thiếu hụt…
Với những diễn biến trên, việc đặt mục tiêu từ 0GW ĐGNK năm 2030 lên đến 17GW năm 2035 là khó khả thi, nếu công tác triển khai dự án chỉ được bắt đầu sau năm 2030.
Do đó, tiến độ đầu tư và phát triển các dự án cần được trải đều từ nay cho đến 2035. Cụ thể, xây dựng lộ trình phát triển dự án theo từng giai đoạn, với các mốc cụ thể cho việc khảo sát ngoài khơi, phân bổ công suất và quy trình cấp phép.
Đặt ra mục tiêu ngắn hạn, chẳng hạn như đạt được 1-2 GW công suất ĐGNK đầu tiên (có thể là tổng công suất của hai dự án) vào năm 2031-2032, để tạo nền tảng vững chắc cho việc mở rộng quy mô hướng tới mục tiêu năm 2035. Điều này cho phép tất cả các bên liên quan, từ các cơ quan nhà nước đến các nhà đầu tư và phát triển dự án học hỏi và rút kinh nghiệm thực tế phát triển ngành.
Bên cạnh đó, hoàn thiện khung pháp lý và biểu giá điệnđể tạo niềm tin vững chắc cho các nhà đầu tư và đáp ứng các điều kiện của thị trường ĐGNK toàn cầu. Nên tránh cơ chế đàm phán giá điện nhiều giai đoạn.
Đồng thời, nâng cao năng lực của chuỗi cung ứng bằng cách thúc đẩy quan hệ đối tác với các nhà cung cấp toàn cầu và khuyến khích nội địa hóa một số thành phần nếu khả thi.
Xây dựng năng lực triển khai từng dự án một cách thực tế và đủ hấp dẫn để đảm bảo khối lượng điện lớn được truyền tải đúng hạn, trong đó chi phí sản xuất điện (chi phí cho mỗi MW) có thể giảm hoặc có mức giá tối ưu cho người tiêu dùng.

Nhiều vị trí công việc trong ngành ĐGNK có thể được đảm nhận bởi nhân sự từ lĩnh vực dầu khí.
Việt Nam tham vọng nội địa hóa ngành điện gió ngoài khơi, theo ông,cơ hội củaViệt Nam là gì?
Việt Nam có tiềm năng lớn trở thành trung tâm của ngành công nghiệp ĐGNK, đặc biệt là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Ví dụ, trong quá trình phát triển dự án ĐGNK La Gàn, chúng tôi ước tính chi phí cho một dự án 3,5GW là hơn 10 tỷ USD, trong đó 4,4 tỷ USD cho các hạng mục trong nước.
Do ngành công nghiệp dầu khí đã được phát triển trong hơn 40 năm qua, Việt Nam có khởi đầu tích cực để phát triển cho ngành công nghiệp ĐGNK (tương tự như Đan Mạch và Vương quốc Anh).
Nhiều vị trí công việc trong ngành ĐGNK có thể được đảm nhận bởi nhân sự từ lĩnh vực dầu khí, vốn có kinh nghiệm về kỹ thuật, an toàn và các thói quen làm việc từ ngành dầu khí hoàn toàn có thể áp dụng cho ĐGNK.
ĐGNK đang thúc đẩy đầu tư vào chuỗi cung ứng trên toàn cầu nhờ công nghệ tiên tiến và quy mô lắp đặt của dự án, với trọng tâm chính là phát triển các tàu lắp đặt, cáp ngầm đáy biển, hệ thống cảng biển và cơ sở chế tạo. Kinh nghiệm trong lĩnh vực dầu khí, đóng tàu và công nghiệp đều là các kỹ năng áp dụng được trong ngành công nghiệp mới này.
Vì thế, những lao động có tay nghề cao trong ngành dầu khí có thể dễ dàng chuyển sang đảm nhận các công việc của ĐGNK và có cơ hội nâng cao tay nghề với công nghệ mới.
Ngoài ra, Việt Nam có thế mạnh về chế tạo kết cấu thép, đặc biệt là trong công nghiệp đóng tàu và khai thác dầu khí. Chính vì vậy, ĐGNK mang đến cơ hội lớn cho các công ty Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo nền móng của tuabin.
Trên thực tế, các công ty con của PetroVietnam, như PTSC và PTSC M&C, đã đấu thầu thành công các gói thầu chế tạo nền móng và trạm biến áp ngoài khơi cho nhiều dự án ĐGNK trong khu vực châu Á - TBD.
Ví dụ như vào tháng 10 năm 2023, với tư cách là tổng thầu EPC, liên danh PTSC M&C và Semco Maritime đã ký hợp đồng thiết kế, mua sắm, xây dựng và đưa vào vận hành các trạm biến áp ngoài khơi cho dự án Fengmiao 1 của CIP tại Đài Loan, trị giá hơn 200 triệu USD.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có kinh nghiệm là nhà phát triển ĐGNK. Vì vậy, để triển khai thành công các trang trại gió ngoài khơi đầu tiên với chi phí tối ưu nhất, các tập đoàn nhà nước của Việt Nam sẽ cần hợp tác với các đơn vị phát triển nước ngoài có kinh nghiệm và năng lực.
Ngay cả trong giai đoạn thứ hai, khi phát triển các dự án ĐGNK mang tính thương mại (tức là thông qua đấu thầu) vai trò của các đối tác nước ngoài cũng rất quan trọng. Trong quá trình phát triển các dự án, các đối tác nước ngoài giàu kinh nghiệm có thể chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ và hướng dẫn đội ngũ Việt Nam cải tiến kỹ thuật, đồng thời liên tục hỗ trợ cho quá trình nội địa hóa.