Phát triển điện gió ngoài khơi: Vướng từ khâu khảo sát
Dự thảo Quy hoạch điện VIII đề ra mục tiêu phát triển 7GW điện gió ngoài khơi đến năm 2030. Song, đến nay, theo các nhà đầu tư, ngay từ công tác xin khảo sát thực địa và đo gió đang bị tạm đình hoãn để chờ sửa đổi Nghị định 11.
Phát biểu tại Hội nghị cấp cao lần thứ 6 tại Việt Nam về điện gió trên bờ - ngoài khơi và lưu trữ năng lượng (The 6th Vietnam Onshore Offshore Wind and Energy Storage Summit) vừa diễn ra tại Hà Nội trong tuần vừa qua, bà Nguyễn Thị Thanh Bình, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn T&T, cho rằng nhu cầu sử dụng điện tăng cao, tiềm năng dồi dào của nguồn điện gió ngoài khơi (ĐGNK) cũng như cam kết của Chính phủ, các chỉ đạo định hướng thời gian qua là những động lực rất lớn thúc đẩy phát triển ĐGNK ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
Khó đạt được mục tiêu 7 GW đầu tiên vào năm 2030
Với tư cách là một nhà đầu tư, bà Bình chia sẻ những thách thức mà các chủ đầu tư, doanh nghiệp gặp phải để phát triển một dự án ĐGNK. Đó là quá trình cấp phép khảo sát, phê duyệt dự án, lựa chọn nhà đầu tư ĐGNK có thể bị kéo dài. Tình trạng này dẫn đến khó đạt được mục tiêu 7 GW đầu tiên vào năm 2030.
Hiện nay, công tác xin khảo sát thực địa và đo gió đang bị tạm đình hoãn chờ sửa đổi Nghị định 11 quy định về giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển.
Tính đến nay đã có gần 100 dự án ĐGNK đăng ký với công suất lắp đặt lên tới 156 GW. 55 đề xuất khảo sát ĐGNK được gửi đến Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhưng mới chỉ có 2 dự án được cấp phép khảo sát, đo gió. Đó là dự án Thăng Long Wind Bình Thuận thực hiện đo gió, khảo sát tổng hợp và Nhà máy điện gió ngoài khơi Bến Tre được lắp đặt trạm đo gió nổi trên biển. Tuy nhiên, do còn vướng mắc về pháp lý và kỹ thuật nên Bộ đề xuất tạm dừng cấp phép đến khi xây dựng được quy định.
Ngoài ra, Dự thảo “Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia của Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” (Quy hoạch điện VIII) hiện mới chỉ đưa ra tổng công suất dự kiến phân bổ vùng (chưa phân theo địa phương) và cũng chưa biết bao giờ được phê duyệt.
Kể cả sau khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt, còn rất nhiều công việc phải thực hiện, quy trình phải xây dựng. Ví dụ như xây dựng Kế hoạch thực hiện Quy hoạch như xác định, phân bổ quy mô công suất theo từng địa phương, xây dựng cơ chế lựa chọn nhà đầu tư...
Một dự án ĐGNK thường đề xuất có quy mô công suất lớn (từ 2 GW-5 GW) và sẽ được phân kỳ đầu tư theo các giai đoạn phù hợp với khả năng hấp thụ, truyền tải công suất. Giai đoạn đầu thường đề xuất phát triển với công suất trung bình khoảng trên dưới 1 GW. Với quy mô này, từ công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến vận hành thương mại sẽ mất tổng thời gian từ 6-8 năm. Hiện đã là cuối tháng 2 của năm 2023 và còn rất nhiều bước pháp lý phải làm để 1 dự án ĐGNK có thể bắt đầu.
Lộ trình xây dựng và ban hành cơ chế chính sách cho các dự án điện gió ngoài khơi cho đến nay chưa vẫn chưa được chuẩn bị, thiếu các chỉ dẫn cụ thể và rõ ràng đã làm cho các nhà đầu tư ĐGNK không thể dự báo để tính suất đầu tư. Tiếp theo đó, công tác chuẩn bị nguồn lực đầu tư và phân tích đánh giá hiệu quả đầu tư cũng trở nên khó khăn.
Bà Bình cũng nhấn mạnh, mặc dù Việt Nam có tiềm năng lớn về ĐGNK nhưng việc phát triển nguồn điện này phải đối mặt với một số bất cập và thách thức, như chi phí đầu tư còn cao do phần lớn các cấu kiện lớn phải nhập ngoại, thiếu cơ sở hạ tầng đồng bộ, thiếu nền công nghiệp phụ trợ cho năng lượng tái tạo nói chung và ĐGNK nói riêng, thiếu kinh nghiệm trong xây dựng và vận hành bảo dưỡng...
“Chúng ta không thể so sánh các quốc gia khác trên thế giới có thể làm ĐGNK với giá 7 cents hoặc thấp hơn và đặt ra yêu cầu Việt Nam cũng có thể làm ĐGNK với giá đó". Bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn T&T
"Các quốc gia khác đã có hàng chục năm phát triển, họ có hạ tầng đồng bộ, tỷ lệ nội địa hóa ngày càng cao, đội ngũ nhân sự chất lượng và đặc biệt là hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách rõ ràng ", bà Bình dẫn thêm.
Cũng theo bà Bình, thách thức lớn để phát triển nguồn điện này tại Việt Nam là cần có cơ chế, chính sách về giá minh bạch, ổn định, nhất quán, tránh đứt gẫy, gián đoạn…
Ngày 7/1/2023 vừa qua, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 21/QĐ-BCT (Quyết định 21) về khung giá phát điện nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp trong đó có biểu giá điện (giá trần, giá cao nhất) cho nhà máy điện gió trên biển là 1.815,95 đ/kWh.
Tiếp theo đó, ngày 19/1, Bộ Công Thương ban hành Thông tư số 01/2023/TT-BCT bãi bỏ một số quy định tại Thông tư số 02/2019/TT-BCT ngày 15/1/2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định thực hiện phát triển dự án điện gió và Hợp đồng mua bán điện mẫu cho các dự án điện gió… Trong đó có quy định “bãi bỏ thời hạn áp dụng giá mua điện trong thời hạn 20 năm; bãi bỏ điều khoản chuyển đổi tiền mua điện sang USD; và bãi bỏ điều khoản Bên mua điện có trách nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện từ dự án điện gió nối lưới…”.
Hiện nay, rất nhiều nhà đầu tư có dự án thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư số 15/2022/TT-BCT, Quyết định 21 và Thông tư 01/2023/TT-BCT đang có chung sự lo lắng, bất an và quan ngại về việc không thể đảm bảo hiệu quả đầu tư do không đảm bảo các chỉ số kinh tế - tài chính khi áp dụng khung giá điện mới ban hành với mức giảm từ khoảng 21-29% (tính theo giá trị USD tương đương) so giá FIT tại Quyết định 13 cho điện mặt mặt trời và Quyết định 39 cho điện gió.
Điều này, thêm một lần nữa, phá vỡ phương án tài chính sau những hậu quả do dịch bệnh Covid-19 gây ra, khiến doanh nghiệp bị đội vốn, đội chi phí. Thậm chí, họ có thể đối diện với nguy cơ phá sản.
Cần có sự phối hợp, thống nhất và đồng bộ
Đại diện tập đoàn T&T nhấn mạnh: “Để khai thác được nguồn năng lượng này tại Việt Nam một cách hiệu quả, rất cần một sự đầu tư bài bản, cụ thể, đủ mạnh ở cấp quốc gia. Và phải đặt nó vào vị trí quan trọng, nhằm tạo ra những tiền đề cho việc hoạch định kế hoạch phát triển cụ thể, chi tiết như các nghiên cứu lập bản đồ xác định tiềm năng và lựa chọn địa điểm, tính toán giá điện quy dẫn (LCOE) và phân tích lưới truyền tải điện, cùng với những thông tin bổ sung liên quan đến quy định pháp luật, cấp phép, các cơ chế khuyến khích và những thành phần của chuỗi cung ứng”.
Ngành công nghiệp điện gió phát triển sẽ không chỉ là nguồn cung cấp năng lượng sạch và góp phần giảm nhẹ biến đổi khí hậu, mà còn tạo ra một số lượng lớn việc làm cho người dân địa phương đồng thời tạo ra nền kinh tế biển xanh và thu hút nguồn đầu tư lớn.
Đại diện tập đoàn T&T nêu kiến nghị Chính phủ sớm xem xét phê duyệt Quy hoạch điện VIII, Bộ Công Thương sớm xây dựng kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII và các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ cho đầu tư phát triển ĐGNK theo lộ trình; Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm xem xét cấp phép cho khảo sát, đo gió.
Bên cạnh đó, bà Bình cũng nêu đề xuất Chính phủ và các Bộ, ngành xem xét cho thực hiện giai đoạn chuyển tiếp trước khi thực hiện chính sách đấu thầu, đấu giá phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Giai đoạn này được kiến nghị áp dụng cho 7.000MW đầu tiên giai đoạn đến 2030.
Đây là giai đoạn đầu khởi động, định hình phát triển một ngành công nghiệp mới, hiện đại ở Việt Nam. Do vậy, việc xem xét bắt đầu bằng cơ chế lựa chọn nhà đầu tư, trên cơ sở phải đáp ứng được các tiêu chí rõ ràng, chứng minh được về năng lực, kinh nghiệm, tài chính... rất cần thiết.
Đối với việc lựa chọn nhà đầu tư, đại diện Tập đoàn T&T cho rằng, ĐGNK thuộc nhóm các dự án cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, sử dụng công nghệ cao (móng sâu, tua bin công suất lớn, tháp gió cao, vận hành trong môi trường nước mặn), và thường có quy mô công suất lớn đòi hỏi các Nhà đầu tư phải có nhiều kinh nghiệm, năng lực tài chính, kỹ thuật. Do vậy, cần có các quy định cụ thể về tiêu chí lựa chọn các nhà đầu tư ngay từ bước chấp thuận chủ trương khảo sát, đảm bảo các nhà đầu tư có năng lực thực sự được lựa chọn, có thể đầu tư, vận hành nhà máy đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, an toàn, hiệu quả.
Ngoài ra, cũng cần có sự phối hợp, thống nhất và đồng bộ giữa các cơ quan quản lý trong việc xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho ĐGNK và coi đây là 1 ngành công nghiệp mới, được khuyến khích đầu tư phát triển, đóng góp vào thực hiện các cam kết của Thủ tướng Chính phủ về cắt giảm CO2 và phù hợp với Chiến lược tăng trưởng xanh.