Phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và làn sóng công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, việc bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Quang cảnh hội thảo khoa học "Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch".
Điều này đòi hỏi biến các giá trị văn hóa truyền thống thành “tài sản” kinh tế thông qua phát triển du lịch, đồng thời sớm xây dựng hành lang pháp lý chuyên biệt để bảo vệ và lan tỏa di sản văn hóa của các cộng đồng tộc người.
Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là “nguồn lực mềm” giúp xây dựng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển xã hội bền vững. Đảng và Nhà nước luôn xác định bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống.
Theo Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam Trịnh Ngọc Chung, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, điều cốt lõi là biến các giá trị văn hóa truyền thống thành nguồn lực, thành “tài sản” mang lại giá trị kinh tế, nhưng muốn những giá trị ấy thực sự trở thành sản phẩm có sức sống trên thị trường, con đường hiệu quả và nhanh nhất chính là gắn với phát triển du lịch. Khi văn hóa gắn với du lịch, không chỉ đời sống của đồng bào được nâng cao, mà những tri thức, phong tục của các dân tộc thiểu số cũng được gìn giữ, lưu giữ và lan tỏa rộng rãi hơn tới cộng đồng và du khách.

Ban Chủ trì hội thảo.
Trong bối cảnh đất nước phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng, chúng ta đồng thời đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, đô thị hóa nhanh, áp lực phát triển kinh tế - xã hội… Tất cả đang tác động trực tiếp đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Đặc biệt, sự bùng nổ của công nghệ, trong đó có trí tuệ nhân tạo, đặt ra cả cơ hội và thách thức mới. Những tiến bộ ấy, nếu được khai thác đúng hướng, sẽ trở thành công cụ quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn văn hóa. Nhưng nếu thiếu cơ chế, thiếu chính sách và giải pháp phù hợp, mặt trái của công nghệ có thể sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong việc gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
“Chính vì vậy, chúng tôi mong muốn ngay trong năm 2026 sẽ có đề xuất trình Bộ, thậm chí trình Chính phủ, về việc xây dựng một Nghị định chuyên biệt liên quan đến bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số. Hiện nay, chúng ta chưa có Luật về công tác dân tộc, cũng chưa có văn bản pháp lý toàn diện về nội dung này. Theo chúng tôi được biết, mới chỉ có Nghị định 05 của Ủy ban Dân tộc trước đây (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo) có một số quy định liên quan, nhưng vẫn chưa đề cập đến lĩnh vực văn hóa dân tộc...”, ông Trịnh Ngọc Chung chia sẻ.

GS.TS Bùi Quang Thanh đề xuất nhiều ý kiến nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số.
GS.TS Bùi Quang Thanh (Viện Văn hóa Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam) cho biết, một thuận lợi lớn là trong nhiều thập kỷ qua, kể từ sau Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo tồn di sản, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, nghị định, thông tư quan trọng liên quan đến bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch văn hóa. Cùng với đó là những quyết định gắn với chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Tuy nhiên, theo GS.TS Bùi Quang Thanh, dù hệ thống văn bản, chính sách rất đầy đủ, chúng ta lại thiếu các hoạt động sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để đánh giá những gì đã làm được và những gì còn “ngáng đường”. Trên nền tảng pháp lý phong phú từ khuyến nghị của UNESCO đến đường lối, chính sách, nghị quyết, nghị định của Đảng và Nhà nước, chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của các dân tộc cũng như của cả nước.
Cùng với đó, GS.TS Bùi Quang Thanh nhấn mạnh, các sản phẩm du lịch văn hóa được hình thành từ ít nhất ba yếu tố: Tài nguyên văn hóa, hệ thống dịch vụ, du lịch và trải nghiệm của du khách. Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên văn hóa, tự nhiên vô cùng phong phú. Vùng núi phía Bắc, dãy Trường Sơn, Tây Nguyên… có cảnh quan hùng vĩ, gần gũi, gắn bó mật thiết với sinh kế, tín ngưỡng và đời sống cộng đồng các dân tộc. Đây là nền tảng quan trọng để hình thành các danh lam thắng cảnh phục vụ du lịch.

Đồng bào dân tộc Mường tham dự hội thảo về bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó, tài nguyên văn hóa nhân văn cũng rất đa dạng. Cả nước hiện có khoảng 40.000 di tích lịch sử, văn hóa đã được kiểm kê, trong đó có 4.000 di tích cấp quốc gia, 10.000 di tích cấp tỉnh và hàng chục nghìn di tích chưa được thống kê đầy đủ. Kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc cũng vô cùng dồi dào. Với người Mường, di sản gắn với phong tục, tập quán, lễ hội, ẩm thực… không chỉ mang bản sắc độc đáo mà còn phản ánh tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Cũng theo GS.TS Bùi Quang Thanh, lâu nay chúng ta nói nhiều đến bảo tồn di tích nhưng vẫn thiếu các mô hình bảo tồn gắn với khai thác hiệu quả: “Nếu có điều kiện, tôi đề xuất Cục Văn hóa các dân tộc nghiên cứu triển khai 6 dự án xây dựng mô hình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tương ứng với 6 vùng văn hóa trên cả nước. Từ đó, chúng ta có thể nhận diện rõ tính đa dạng, đặc trưng bản sắc của từng vùng. Khi có mô hình mẫu, các thế hệ sau chỉ cần tiếp tục triển khai theo đúng hướng… Đồng thời, chúng ta không chỉ giải quyết được yêu cầu về thực tiễn mà còn có cơ sở lý luận vững chắc, bảo đảm sự phù hợp với đặc thù văn hóa của từng vùng miền”, GS.TS Thanh bày tỏ.
GS.TS Bùi Quang Thanh cho rằng, lâu nay chúng ta bàn về vấn đề bảo tồn di tích, chúng ta cũng chưa xây dựng một mô hình bảo tồn và khai thác. “Tôi nghĩ ý kiến này nếu phát triển, tôi đề xuất với Cục Văn hóa các dân tộc, nếu có nguồn kinh phí thực hiện 6 dự án xây dựng mô hình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của 6 vùng văn hóa trên cả nước. Trên cơ sở đó chúng ta sẽ triển khai để xem được tính đa dạng của từng vùng văn hóa, bản sắc văn hóa ở từng vùng như thế nào. Nếu có mô hình, chi phí của các thế hệ kế tiếp theo sẽ. đi đúng hướng… Nếu mà Cục di sản văn hóa các dân tộc của di sản văn hóa dân tộc và có được sáu cái dự án gắn với sáu vùng văn hóa để xây dựng mô hình sáu cái mô hình bảo tồn và khai thác giá trị di sản văn hóa của các dân tộc thì chúng ta sẽ thấy là nó vừa đảm bảo được triển khai những vấn đề lý luận đặc biệt, nó có thể thích ứng được bản sắc của từng vùng văn hóa”, ông Thanh chia sẻ.
PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho biết, thời gian qua, việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch đã được nhiều địa phương triển khai mạnh mẽ và đạt được những kết quả nhất định. Thực tế đó cho thấy khi phát triển du lịch theo hướng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, du lịch và văn hóa sẽ giúp công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trở nên thiết thực và hiệu quả hơn. Đồng thời, cách tiếp cận này cũng góp phần phát huy tối đa vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng trong quá trình phát triển.


Những điệu múa đặc trưng của từng đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo PGS.TS Song Hà, văn hóa chỉ thực sự được bảo tồn và lan tỏa khi nó được thực hành một cách sống động trong đời sống cộng đồng. Các mô hình du lịch cộng đồng hiện nay chính là cơ sở thực tiễn để thực hiện mục tiêu kép: Vừa bảo tồn, chuyển giao di sản văn hóa nguyên gốc cho thế hệ trẻ, vừa phát huy giá trị văn hóa phi vật thể phục vụ nhu cầu của cộng đồng, phát triển kinh tế và thúc đẩy du lịch bền vững. Nhờ đó, sản phẩm và dịch vụ du lịch mang được sắc thái văn hóa của từng tộc người và từng địa phương trên nền tảng tài nguyên du lịch bản địa.
PGS.TS Song Hà nhấn mạnh, chính cộng đồng tộc người là chủ thể sáng tạo, thực hành và lưu giữ các giá trị văn hóa; đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp tạo nên những trải nghiệm độc đáo cho du khách trong không gian văn hóa của mình. Việc phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, mang đậm bản sắc văn hóa tộc người là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Dù đã có nhiều mô hình khai thác du lịch văn hóa, PGS.TS Song Hà cho rằng ở một số nơi vẫn xuất hiện sự trùng lặp, thiếu khác biệt, chưa tạo được dấu ấn mạnh mẽ hay động lực để du khách quay trở lại. Nguyên nhân có thể do chúng ta chưa khai thác hết chiều sâu giá trị văn hóa, yếu tố cốt lõi để tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo, đặc trưng cho từng cộng đồng.
Từ đó, PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà nhấn mạnh: Cần nhận diện và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, giữa bảo tồn và phát triển; giữa gìn giữ các giá trị văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội. Khi bảo tồn, phát huy văn hóa thông qua hoạt động du lịch, phải xác định rõ mục tiêu để tạo nên sự tương tác tích cực từ cả hai phía, coi phát triển văn hóa là yếu tố cốt lõi, bền vững. Điều này đòi hỏi sự cân bằng giữa giá trị văn hóa và phát triển du lịch, hài hòa lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời ứng dụng hiệu quả công nghệ số.
PGS.TS Song Hà cũng lưu ý cần xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, mang đậm hơi thở và bản sắc riêng của từng cộng đồng tộc người, tránh pha trộn làm nhạt màu giá trị văn hóa bản địa. Đặc biệt cần tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cho cộng đồng và người dân trong quá trình làm du lịch, nhất là trong công tác bảo tồn và gìn giữ các giá trị văn hóa của chính họ. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh đổi mới, hội nhập hiện nay là nhiệm vụ cấp thiết. Các sản phẩm du lịch đặc thù dựa trên bản sắc dân tộc thiểu số cần được nhìn nhận đúng đắn, để những giá trị văn hóa của đồng bào được thể hiện, tái hiện một cách sống động trong đời sống và tạo ra trải nghiệm khám phá ý nghĩa cho du khách.
Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số không chỉ là trách nhiệm với di sản mà còn là chìa khóa phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Khi các giá trị văn hóa được chuyển hóa thành sản phẩm du lịch đặc thù, gắn với cộng đồng và ứng dụng công nghệ hiện đại, chúng không chỉ sống động trong đời sống mà còn tạo ra sức lan tỏa rộng khắp, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào, đồng thời khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa.












