Phát triển kinh tế từ tài nguyên bản địa
Tận dụng nguồn tài nguyên bản địa, người dân xã biên giới Kim Điền đã đầu tư các mô hình trồng trọt, chăn nuôi có hiệu quả. Kinh tế 'bản địa' đang trở thành một hướng đi giúp người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS) thoát nghèo bền vững, vươn lên trong cuộc sống.
Nuôi con “đặc sản” để phát triển kinh tế hộ
Chồn hương (hay còn gọi là cầy vòi hương) là những động vật hoang dã quý hiếm được bảo vệ nghiêm ngặt. Nhưng khoảng 10 năm trở lại đây, dưới sự giám sát, quản lý của lực lượng kiểm lâm, loài động vật này đã thành vật nuôi của nhiều hộ dân ở xã Kim Điền.
Năm 2021, trong một lần đi lấy mật ong rừng, anh Đinh Ngọc Châu (SN 1993, trú ở thôn Lâm Khai) bị ngã từ trên cây cao xuống đất. Vụ tai nạn đã khiến anh Châu phải cắt cụt chân, từ một người khỏe mạnh trở thành người tàn tật.
Sau khi xuất viện, anh Châu chỉ có thể làm được một vài việc vặt mà không thể làm được gì khác và trong anh luôn xuất hiện suy nghĩ mình đã trở thành gánh nặng của gia đình. Thương bố mẹ vất vả, anh Châu quyết tâm tìm một công việc gì đó, phù hợp với hoàn cảnh của mình, qua đó phần nào bớt đi gánh nặng cho gia đình.
Nhận thấy ở địa phương đã có một số người nuôi thành công con chồn hương, anh Châu đã tích cực nghiên cứu trên sách, báo, mạng xã hội và tham gia vào các hội nhóm chăn nuôi để tìm hiểu kỹ thuật nuôi chồn hương. Đồng thời, anh cũng tìm đến những người đã nuôi thành công giống vật nuôi này để học hỏi thêm kinh nghiệm. Sau khi bàn bạc với gia đình, đầu năm 2022, anh Châu đã quyết định đầu tư chuồng trại, khai báo với cơ quan chức năng, mua 2 cặp giống chồn hương về nuôi.

Rừng trồng bản địa của ông Bàn Thanh Sơn ở xã Kim Điền - Ảnh: P.P
Từ 2 cặp giống ban đầu, đến nay đàn chồn hương của anh Châu đã phát triển lên đến trên 50 con. Trong quá trình đó, anh Châu cũng đã bán được hơn 20 con giống. Theo anh Châu, chồn hương nuôi khoảng một năm có thể ghép đôi phối giống; mỗi lứa sinh 2-3 con, mỗi năm chồn cái có thể sinh 3 lứa nếu chăm sóc tốt. Chồn con sau khi tách mẹ, nuôi từ 6-12 tháng là có thể bán giống, với giá thị trường khoảng 15-20 triệu đồng mỗi cặp.
“Chồn hương rất dễ nuôi, thức ăn dễ kiếm, ít chi phí và không tốn nhiều công. Để chồn hương sinh trưởng tốt, ít bệnh, nguồn thức ăn phải được kiểm soát tốt, chuồng trại phải luôn sạch sẽ “đông ấm, hè mát”. Tất nhiên, để nuôi hương, gia đình cần phải đáp ứng đầy đủ quy định của cơ quan chức năng mới được phép tiêu thụ sản phẩm”, anh Châu chia sẻ.
Ông Đinh Viết Thông, Phó trưởng Phòng Kinh tế xã Kim Điền cho biết: Thời gian qua, mô hình nuôi chồn hương phát triển nhanh trên địa bàn xã nhờ chi phí đầu tư không lớn, trong khi nhu cầu thị trường cao, góp phần cải thiện thu nhập cho người dân. Đến nay, toàn xã có 13 hộ đăng ký và được cấp giấy phép nuôi chồn hương với số lượng từ 30-50 con/hộ nuôi. Ngoài chồn hương, lợn rừng lai F1 cũng là một trong những con “đặc sản” được người dân Kim Điền chọn nuôi nhiều vì đầu ra ổn định, giá trị kinh tế cao.
Nuôi ong dưới tán vườn rừng
Kim Điền là xã có diện tích rừng khá lớn với trên 20.000ha rừng tự nhiên, nên mật ong được xem là một “đặc sản" có giá trị kinh tế cao. Nếu như trước đây, mật ong đều được lấy từ rừng thì hiện nay nghề nuôi ong lấy mật đã trở thành một trong những nghề chính giúp người dân, đặc biệt ĐBDTTS ở xã Kim Điền thoát nghèo, vươn lên trong cuộc sống.
Trang trại nuôi ong của ông Đinh Trọng Chính, ở thôn Tân Lợi được đặt sau vườn nhà, dưới những tán cây rừng mát mẻ. Nhiều năm qua, nhờ 50 đàn ong mật, mỗi năm gia đình ông Chính thu về hơn 100 triệu đồng. Cùng với vườn rừng, đàn ong mật đã trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều người dân ở xã Kim Điền.
“Nghề nuôi ong lấy mật cần cẩn thận và nắm rõ kỹ thuật, thường xuyên kiểm tra, chăm sóc để đàn ong khỏe mạnh, cho nhiều mật. Đây cũng là loài nhạy cảm, chỉ sống trong môi trường tự nhiên sạch sẽ, không hóa chất, nguồn nước sạch… Mình nắm rõ thì công việc sẽ thuận lợi, lượng mật thu được cũng ổn định”, ông Chính chia sẻ.
Xã Kim Điền được thành lập trên cơ sở sáp nhập 2 xã Hóa Sơn và Hóa Hợp (cũ) với diện tích tự nhiên 229,42km2, dân số trên 6.100 người. Là một xã biên giới, Kim Điền có hơn 30% dân số là ĐBDTTS, trong đó có dân tộc Chứt. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, trong đó bảo tồn các giá trị văn hóa đặc sắc của ĐBDTTS là một trong những nhiệm vụ quan trọng của địa phương trong thời gian qua và những năm tiếp theo.
Theo UBND xã Kim Điền, trên địa bàn xã hiện có hàng trăm hộ nuôi ong với tổng số lượng trên 1.000 đàn ong. Trong đó Hợp tác xã Nông nghiệp Hóa Sơn (xã Hóa Sơn cũ) đã “chuẩn hóa” quy trình nuôi ong mật ngay từ các khâu để cho ra sản phẩm chất lượng. Sản phẩm mật ong Hóa Sơn đã đạt chuẩn OCOP 3 sao.
Hiện nay, người dân Kim Điền đang phát triển mạnh mô hình nuôi ong lấy mật dưới tán vườn rừng, đặc biệt là các vườn rừng được trồng bằng giống cây rừng bản địa. Đây là mô hình cây-con bản địa kết hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần bảo vệ môi trường.
Trên địa bàn xã Hóa Sơn (cũ), các ông: Bàn Thanh Sơn; Đinh Ngọc Loan và Đinh Tiến Phương được biết đến là những người sở hữu diện tích rừng trồng bản địa lớn. Trong đó, ông Sơn sở hữu 6ha rừng trám và cây lim; ông Loan sở hữu 4,5ha trầm dó; ông Phương sở hữu 2,5 cây trầm dó. Điểm chung ở 3 hộ dân này là mặc dù trồng rừng bản địa giỏi, giá trị lớn nhưng thu nhập mang lại đều từ sản phẩm phụ dưới tán rừng, trong đó nuôi ong lấy mật là nguồn thu chính.
Ông Đinh Minh Nam, Phó Chủ tịch UBND xã Kim Điền cho biết: Xã đang tích cực hỗ trợ, hướng dẫn phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho Nhân dân từ các cây-con “bản địa” đặc trưng của địa phương. Đây là các mô hình kinh tế cho hiệu quả cao, do nhu cầu thị trường lớn, giá trị cao. Nuôi trồng các giống “bản địa”, “đặc sản” cũng góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu những tác động xấu vào tài nguyên rừng của người dân…











