Phát triển nguồn nhân lực thích ứng với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo

Các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý thảo luận về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc chủ trì phiên họp.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc chủ trì phiên họp.

Ngày 19/12, Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực tổ chức phiên họp với chủ đề “Chính sách và các nhiệm vụ trọng tâm trong dự thảo chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc - Trưởng Tiểu ban Phát triển nhân lực, Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực chủ trì phiên họp.

Nhân lực là nguồn tài nguyên đặc biệt

Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, nhân lực được coi là nguồn tài nguyên đặc biệt, là lợi thế cạnh tranh và là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt quan trọng, là nguồn lực có tính đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Đối với phát triển kinh tế, nguồn nhân lực có tính nội sinh chi phối các nguồn lực khác, gắn với trí tuệ, kỹ năng, tay nghề, ứng dụng khoa học công nghệ, có đặc trưng nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, trong khi các nguồn lực khác có tính hữu hạn và chỉ phát huy được hiệu quả nếu kết hợp với yếu tố nhân lực.

Phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong hình thành và phát triển các giá trị xã hội, giảm nghèo đảm bảo công bằng, tạo ra nguồn lực, động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, phát triển con người với tư cách là phát triển nguồn nhân lực chiếm vị trí trung tâm trong phát triển nguồn lực quốc gia, việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực là đầu tư chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế, xã hội và sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

 Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc trao đổi với các đại biểu.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc trao đổi với các đại biểu.

Giai đoạn 2021 đến nay là giai đoạn Việt Nam đang nỗ lực phục hồi kinh tế sau đại dịch và đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao hơn. Chất lượng lao động dần được cải thiện thông qua tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ có xu hướng tăng lên trong các năm.

Bên cạnh đó, báo cáo chỉ rõ: Tổng thể, nguồn cung lao động còn có dư địa để phát triển nhưng cần cải thiện ngay chất lượng lao động để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ 4.0 cũng như công nghệ trí tuệ nhân tạo.

Năng suất lao động của Việt Nam mặc dù đã có cải thiện nhưng vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là trong khu vực kinh tế tư nhân và nhà nước. So với các nước ASEAN-6 (Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Brunei), Việt Nam nằm ở nhóm thấp nhất. Điều này đe dọa khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống và thu nhập bền vững.

Đặc biệt, nguy cơ không bắt kịp và thiếu chủ động tham gia vào cuộc cách mạng toàn cầu về trí tuệ nhân tạo, dẫn đến khoảng cách về công nghệ trí tuệ nhân tạo ngày càng lớn. Điều này đòi hỏi phải hành động ngay để tận dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo thúc đẩy sự thịnh vượng quốc gia, đồng thời đảm bảo tính bao trùm và đạo đức trong sử dụng công nghệ.

 GS.TS Phạm Hồng Quang - Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Khoa học Giáo dục phát biểu.

GS.TS Phạm Hồng Quang - Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Khoa học Giáo dục phát biểu.

Gắn với chiến lược giáo dục và đào tạo

Bộ GD&ĐT nhận định: Việc xây dựng một chiến lược bài bản, xâu chuỗi các vấn đề và có những giải pháp cụ thể, căn cơ, lâu dài cho phát triển nguồn nhân lực quốc gia là hết sức cần thiết và quan trọng.

Đề án do Chính phủ ban hành không đi sâu phân tích và dự báo nhu cầu nhân lực của ngành, lĩnh vực hay của địa phương mà xây dựng khung chính sách chung dựa vào các chỉ số đo lường về nhân lực. Các Bộ, ngành là cơ quan hiểu rõ nhất về cơ cấu, tốc độ phát triển, và nhu cầu thay thế/bổ sung nhân lực ở lĩnh vực chuyên môn của mình.

Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nắm rõ tiềm năng kinh tế, cơ cấu đầu tư, và nhu cầu lao động tại địa bàn. Việc dự báo nhu cầu nhân lực tại chỗ sẽ chính xác và kịp thời hơn. Do đó, nếu thực hiện dự báo nhân lực ở cấp độ quốc gia sẽ quá rộng và thiếu chính xác cho từng chuyên ngành hẹp hoặc từng khu vực kinh tế cụ thể.

Trong bối cảnh phát triển nhanh chóng, khó lường của thị trường lao động toàn cầu và sự phân cấp trách nhiệm quản lý, Đề án đóng vai trò là kim chỉ nam cho các chính sách về nhân lực trên phạm vi cả nước, tập trung vào ba trụ cột chiến lược để tạo ra và sử dụng nguồn nhân lực một cách bền vững, tập trung vào làm rõ một số định hướng cơ bản đối với nhân lực của Việt Nam trong giai đoạn tới.

Góp ý tại phiên họp, các đại biểu thống nhất với nhận định: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia phải gắn với chiến lược giáo dục và đào tạo, chuyển dịch từ đào tạo theo nhu cầu của người học sang đào tạo dựa trên nhu cầu của thị trường lao động, đa dạng hóa các cấp độ và ngành nghề, bao gồm cả đào tạo đại trà và đào tạo lại/chuyển đổi nghề nghiệp.

GS.TS Phạm Hồng Quang - Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Khoa học Giáo dục - cho rằng, khái niệm nguồn nhân lực cần tham khảo thêm khái niệm của Tổ chức phát triển Liên Hợp Quốc “Phát triển nhân tính và khả năng của con người và sử dụng khả năng ấy" và đề nghị ban hành chính sách vĩ mô để chi phối.

Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã nhắc đến chỉ tiêu phát triển con người HDI, đánh giá sự phát triển của một quốc gia dựa trên ba khía cạnh chính: sức khỏe (tuổi thọ trung bình), tri thức (giáo dục), và mức sống (thu nhập quốc dân bình quân đầu người), nhấn mạnh con người và năng lực của họ mới là tiêu chí đánh giá sự phát triển thực sự, không chỉ là tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

 Ông Phạm Mạnh Thùy, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.

Ông Phạm Mạnh Thùy, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.

 Ông Bùi Tôn Hiến, Phó Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức Nhà nước và lao động phát biểu.

Ông Bùi Tôn Hiến, Phó Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức Nhà nước và lao động phát biểu.

Ông Phạm Mạnh Thùy, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính nhận định: Trong phát triển xã hội, cần chăm lo đến sức khỏe của nhân dân, chăm lo đến sự phát triển của toàn xã hội, từ người yếu thế, người có công. Nguồn nhân lực tiếp cận tổng thể, cần sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành, đơn vị.

Phát triển nguồn nhân lực không chỉ tập trung vào số lượng mà đặc biệt chú trọng đến chất lượng, với trọng tâm là phát triển kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp và năng lực thích ứng của người lao động. Ưu tiên nhân lực chất lượng cao để thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Cần thực hiện gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục đào tạo với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, thu hút chuyên gia trong và ngoài nước; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại và tăng cường hợp tác quốc tế. Nhân lực là một bộ phận của phát triển KTXH, gắn với phát triển KTXH, gắn với nhu cầu đào tạo nguồn lực lao động.

Ông Bùi Tôn Hiến, Phó Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức Nhà nước và lao động, Bộ Nội vụ cho rằng: Các nội dung trong dự thảo Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã thể hiện đầy đủ bản chất, tính pháp lý cần thiết và quan trọng trong tổng thể phát triển.

 Đại biểu trao đổi tại phiên họp.

Đại biểu trao đổi tại phiên họp.

 Các đại biểu dự phiên họp.

Các đại biểu dự phiên họp.

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia cần phải gắn với định hướng phát triển khoa học và công nghệ, thích ứng mạnh mẽ với bối cảnh chuyển đổi số, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, và chuyển đổi sang kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, từng bước tháo gỡ điểm nghẽn về nhân lực, ưu tiên đào tạo nhân lực cho các ngành KHCN mũi nhọn, khoa học cơ bản, công nghệ lõi.

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải gắn với chiến lược phát triển con người, chính sách dân số và an sinh xã hội, chế độ đãi ngộ người lao động, chế độ chăm sóc sức khỏe người già và trẻ em. Chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số và tư duy hội nhập quốc tế.

Kết luận phiên họp, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho rằng Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2030, tầm nhìn 2045 là phát triển nguồn nhân lực Việt Nam toàn diện, chất lượng cao, có khả năng thích ứng và cạnh tranh mạnh mẽ trong khu vực và trên toàn cầu, có kỹ năng và năng suất lao động vượt trội, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược, có khả năng sử dụng thành thạo và làm chủ công nghệ trí tuệ nhân tạo.

Bộ GD&ĐT, Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực sẽ tiếp thu các ý kiến tại phiên họp để tiếp tục hoàn thiện đề án, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong thời gian sớm nhất.

Lan Anh

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-thich-ung-voi-su-phat-trien-cua-tri-tue-nhan-tao-post761214.html