Phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững cần các chính sách 'chạm đất'

Phát triển Nông nghiệp sinh thái đang đứng trước nghịch lý 'chính sách thì dày mà kỹ thuật lại mỏng', khiến nhiều mô hình dễ rơi vào 'bẫy thí điểm'. Các chuyên gia nhấn mạnh, chỉ khi chính sách 'chạm đất' bằng dịch vụ cụ thể và có hệ thống đo lường – báo cáo – thẩm tra minh bạch, nông nghiệp sinh thái mới trở thành động lực kinh tế bền vững…

Một mô hình nông nghiệp sinh thái tại An Giang mang lại lợi ích kép về kinh tế, môi trường

Một mô hình nông nghiệp sinh thái tại An Giang mang lại lợi ích kép về kinh tế, môi trường

Tại hội thảo tham vấn kỹ thuật “Chuyển đổi nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp dựa vào các giải pháp tự nhiên: Đóng góp cho chuyển đổi hệ thống lương thực bền vững tại Việt Nam”, do Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp tổ chức ngày 26/8/20254, các chuyên gia cho rằng: "Khi chính sách, tài chính, thị trường và nông dân cùng khép kín vòng tròn giá trị, nông nghiệp sinh thái sẽ không chỉ là một “ý tưởng đẹp”, mà trở thành chuẩn mực phát triển, vừa bảo vệ sinh kế trước mắt, vừa mở ra tương lai xanh cho đất nước".

KHOẢNG CÁCH TỪ TẦM NHÌN ĐẾN RUỘNG ĐỒNG VẪN CON XA

TS.Bùi Hải Nam, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, cho biết Việt Nam đang thúc đẩy chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm gắn với mục tiêu phát triển bền vững và cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, nông nghiệp - nguồn sinh kế của gần 2/3 dân số nông thôn, đồng thời là một trong ba lĩnh vực phát thải lớn nhất. Do đó, cần phải chuyển đổi cấu trúc phát triển nông nghiệp sang mô hình sinh thái, tuần hoàn và ít carbon.

Việc nghiên cứu, rà soát và đề xuất các mô hình nông nghiệp sinh thái và giải pháp dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho hoạch định chính sách và nhân rộng thực hành hiệu quả trở nên càng cấp thiết. Đây là một hoạt động thuộc khuôn khổ Chương trình chung của Liên hiệp quốc tại Việt Nam (Joint SDG) về “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong cơ chế đối tác về tài chính cho chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm tại Việt Nam do Chương trình Phát triển liên hiệp quốc (UNDP) phối hợp với các tổ chức UN thực hiện.

Theo TS.Nam, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp dựa vào các giải pháp tự nhiên (NbS) đang nổi lên như hướng đi tất yếu cho nền nông nghiệp Việt Nam. Các mô hình hữu cơ, nông nghiệp thông minh, cùng sự tham gia ngày càng sâu của các chương trình hợp tác quốc tế đã đem lại những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Nông nghiệp sinh thái tại Việt Nam đã cho thấy sự chuyển động tích cực.

Chính sách cần được “chạm đất” dưới dạng dịch vụ cụ thể cho từng vùng, từng loại cây trồng. Đồng thời, xây dựng hệ thống đo lường – báo cáo – thẩm tra (MRV) để kiểm chứng hiệu quả bằng con số. Khi đó, “mạch giá trị” từ cam kết quốc tế đến thửa ruộng mới có thể khép kín, và nông nghiệp sinh thái sẽ trở thành một động lực kinh tế thực sự”.

TS. Bùi Hải Nam, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp.

"Việt Nam đã có hành lang chính sách, thậm chí cam kết mạnh mẽ với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, song “khoảng cách giữa tầm nhìn và đồng ruộng vẫn còn xa. Nếu nông dân không nhìn thấy lợi ích cụ thể, nông nghiệp sinh thái sẽ mãi luẩn quẩn trong các dự án thí điểm”, ông Nam nhấn mạnh.

Một nghịch lý lớn, theo TS.Nam, là hành trình đưa nông nghiệp sinh thái trở thành động lực kinh tế vẫn còn nhiều khoảng trống cần được lấp đầy.

“Chính sách thì dày mà kỹ thuật lại mỏng. Hệ thống khuyến nông chưa linh hoạt, logistics còn cồng kềnh, dịch vụ kỹ thuật tại chỗ thiếu đáp ứng. Nhiều mô hình dù được đánh giá cao vẫn dễ rơi vào bẫy thí điểm”, TS.Nam cảnh báo; đồng thời cho rằng để giải quyết nghịch lý này, cần một cơ chế “đóng mạch giá trị” – nơi chính sách, tài chính, thị trường và nông dân cùng vận hành trong vòng tròn khép kín. Khi đó, nông dân không chỉ là người thực thi, mà thực sự trở thành trung tâm của chuyển đổi, đưa nông nghiệp sinh thái từ ý tưởng thành động lực kinh tế.

CẦN XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN QUỐC GIA CHO NÔNG NGHIỆP SINH THÁI

Một trong những điểm nghẽn lớn nhất cho phát triển nông nghiệp sinh thái hiện nay chính là nguồn vốn. Các ngân hàng e ngại cho vay tín chấp vì rủi ro thiên tai, dịch bệnh, trong khi cơ chế bảo hiểm nông nghiệp chưa hoàn thiện. Bà Nguyễn Thị Thịnh, CEO Mục Đồng Organic, nêu câu hỏi: “Nếu không có cơ chế bảo hiểm, làm sao nông dân và hợp tác xã dám mạnh dạn bước vào con đường sinh thái?”.

Để tự thích ứng, Mục Đồng đã chuyển chuồng trại lên Hòa Bình, nuôi bò theo triết lý “5 không”. Chất thải chăn nuôi biến thành phân vi sinh, điện mặt trời thay thế điện lưới, vỏ chai nhựa được tái sử dụng. Vòng tròn khép kín này không chỉ tiết kiệm hàng chục triệu đồng mỗi năm, mà còn tạo việc làm cho cộng đồng. Theo bà Thịnh, sản phẩm không chỉ là sữa, mà còn là một câu chuyện sinh thái truyền cảm hứng, đi lên từ thực tiễn nông thôn.

Câu chuyện của Mục Đồng cũng gặp gỡ với kinh nghiệm của ông Trần Mạnh Chiến, Giám đốc Thực phẩm sạch Bác Tôm. Ông nhắc tới PGS: hệ thống “giám sát cùng tham gia” giữa nông dân, nhà bán lẻ và người tiêu dùng. Không tốn kém như chứng nhận quốc tế, PGS bền vững nhờ niềm tin và sự đồng hành của các bên. Từ 4 cửa hàng rau hữu cơ năm 2009, đến nay Bác Tôm đã có hơn 100 điểm bán, trở thành “cầu nối giữ lửa” cho thị trường hữu cơ.

Tuy vậy, theo ông Chiến, cả PGS lẫn các mô hình hữu cơ khác đều vướng cùng một hạn chế: vốn ngắn hạn, ít ỏi, không đủ nuôi các chiến lược dài hơi.

Ông Vũ Thái Trường, Trưởng Ban Biến đổi khí hậu và Môi trường UNDP tại Việt Nam, cũng nhìn nhận: nếu không có tín dụng xanh và sự tham gia chủ động của cộng đồng, nông nghiệp sinh thái khó có thể bền vững. Ngược lại, khi dòng vốn được khai thông và hợp tác làm chủ, sản phẩm nông nghiệp có thể gắn liền với du lịch sinh thái, văn hóa bản địa, giúp nông dân giữ lại giá trị gia tăng thay vì để tuột khỏi tay.

Nông nghiệp sinh thái không còn là lựa chọn thử nghiệm, mà đã bước sang giai đoạn trở thành chuẩn mực bắt buộc, gắn với các chiến lược lương thực thực phẩm quốc gia, phát triển đa giá trị và bền vững.

Ông Vũ Thanh Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), khẳng định: “Nông nghiệp sinh thái vừa bảo vệ đa dạng sinh học, vừa là chìa khóa để nền nông nghiệp chống chịu trong biến động khắc nghiệt.” Vì vậy, cần thiết phải xây dựng bộ tiêu chí rõ ràng, đi kèm cơ chế tài chính xanh, tín chỉ carbon và hợp tác công – tư. Chỉ khi gắn với nguồn lực cụ thể và khung đo lường minh bạch, nông nghiệp sinh thái mới thoát khỏi khẩu hiệu.

Ở góc nhìn quốc tế, TS. Nguyễn Quang Tân, Điều phối viên quốc gia của ICRAF, dẫn chứng: Ấn Độ đào tạo hàng nghìn khuyến nông viên để lan tỏa mô hình sinh thái; Philippines hồi sinh vùng đất dốc nhờ hạ tầng xanh; Indonesia cứu đất than bùn bằng nông lâm kết hợp. Những ví dụ này cho thấy, khi nông nghiệp sinh thái được đặt trong khuôn khổ chính thức, hàng triệu nông dân có thể thay đổi tập quán, ổn định sinh kế.

Tại Việt Nam, các mô hình ở Lào Cai, Phú Thọ do ICRAF triển khai đã giúp giảm tới 70% lượng phân bón hóa học mà năng suất vẫn ổn định. Tuy nhiên, TS.Tân lưu ý, để kết quả ấy không chỉ là “điểm sáng trên báo cáo”, cần có không gian cho “nông dân dạy nông dân” – cách lan tỏa tri thức chân thực và hiệu quả nhất.

Chu Khôi

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/phat-trien-nong-nghiep-sinh-thai-ben-vung-can-cac-chinh-sach-cham-dat.htm