Phát triển siêu đô thị TP.HCM và yêu cầu xanh hóa ngành xây dựng

TP.HCM đang đứng trước bài toán kép vừa phải phát triển mạnh mẽ hạ tầng, đô thị để thúc đẩy tăng trưởng, song cũng phải đáp ứng yêu cầu giảm phát thải theo cam kết Net Zero.

Là đầu tàu kinh tế của cả nước, mật độ xây dựng cao, tốc độ đô thị hóa nhanh và nhu cầu phát triển hạ tầng ngày càng lớn, TP.HCM không chỉ gánh vác vai trò đầu tàu tăng trưởng, mà còn mang trên mình trách nhiệm tiên phong trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

TP.HCM đang thể hiện quyết tâm thúc đẩy đô thị hóa theo hướng đô thị thông minh, bền vững, có năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu, bảo đảm hiệu quả kinh tế - sinh thái. Ảnh: Lê Toàn.

TP.HCM đang thể hiện quyết tâm thúc đẩy đô thị hóa theo hướng đô thị thông minh, bền vững, có năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu, bảo đảm hiệu quả kinh tế - sinh thái. Ảnh: Lê Toàn.

Những năm qua, TP.HCM đã chủ động triển khai hàng loạt chương trình, đề án trọng điểm như phát triển đô thị thông minh, chuyển đổi số trong quản lý xây dựng, khuyến khích công trình xanh và tiết kiệm năng lượng, đồng thời thúc đẩy các mô hình hợp tác công - tư trong đầu tư phát triển hạ tầng.

Thành phố cũng là địa phương đi đầu trong việc thí điểm và nhân rộng các tiêu chuẩn công trình xanh, với hàng trăm dự án áp dụng các bộ tiêu chí quốc tế như LEED, LOTUS, EDGE, qua đó góp phần giảm tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính.

Tuy nhiên, theo báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP), ngành Xây dựng và vận hành tòa nhà hiện chiếm khoảng 37% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu và tiêu thụ 34% năng lượng thế giới. Tại Việt Nam, ngành Xây dựng cũng là một trong những lĩnh vực phát thải khí nhà kính lớn.

Trong bối cảnh đó, phát triển bền vững ngành Xây dựng không còn là yêu cầu mang tính khuyến nghị, mà đã trở thành lựa chọn chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đô thị, chất lượng sống của người dân và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trao đổi với phóng viên, ông Đinh Hồng Kỳ, Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng TP.HCM, cho rằng khoảng cách giữa cam kết và hành động vẫn còn lớn, đòi hỏi những chính sách đồng bộ và sự chuyển đổi thực chất từ cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp.

Ông Đinh Hồng Kỳ, Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng TP.HCM. Ảnh: Trọng Tín.

Ông Đinh Hồng Kỳ, Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng TP.HCM. Ảnh: Trọng Tín.

Thưa ông, TP.HCM đang định hướng phát triển theo mô hình đô thị xanh, tăng trưởng bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong bức tranh đó, ông đánh giá thế nào về vai trò của ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, đặc biệt khi Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050?

Hiện nay, áp lực từ cam kết Net Zero vào năm 2050 của Chính phủ đang rất nặng nề. Tính từ thời điểm này, chúng ta chỉ còn tối đa khoảng 25 năm nữa để thực hiện mục tiêu đó. Đây là một thách thức cực kỳ lớn đối với nền kinh tế nói chung.

Còn đối với ngành có phát thải cao như ngành xây dựng, vật liệu xây dựng, thi công hạ tầng, bất động sản… thì tỷ lệ phát thải trong hệ sinh thái ngành xây dựng hiện chiếm khoảng 37% - 39%, một con số rất lớn ảnh hưởng trực tiếp đến hành trình Net Zero.

Vấn đề lớn nhất hiện nay là khoảng cách giữa cam kết và hành động còn quá lớn. Chúng ta vẫn thiếu một lộ trình chi tiết, các hướng đi cụ thể và bộ hướng dẫn để các cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp có thể hình dung và đồng hành cùng Chính phủ trong các bước tiến tới Net Zero.

Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển xanh của TP.HCM, cộng đồng doanh nghiệp xây dựng và vật liệu xây dựng đang ở đâu trong quá trình chuyển đổi? Họ đang chủ động thích ứng hay vẫn còn đang lúng túng, thưa ông?

Về nhận thức, tôi cho rằng giai đoạn khai phá để doanh nghiệp hiểu “phải tiến tới Net Zero” đã qua rồi. Tuy nhiên, từ nhận thức đến hành động thực tế là một câu chuyện khác.

Hiện nay, những doanh nghiệp thực sự thay đổi chủ yếu là những đơn vị đang chịu áp lực “sát sườn” từ thị trường. Nếu không có chứng chỉ xanh hoặc không đạt các chỉ tiêu KPI cụ thể, họ sẽ không thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu hoặc các chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam.

Xu hướng chuyển dịch sang chuỗi cung ứng xanh đang diễn ra rất mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển. Khi đó, doanh nghiệp bắt buộc phải thay đổi dựa trên ba trụ cột chính: công nghệ xanh, vật liệu xanh và tài chính xanh.

Chỉ khi có giải pháp đồng bộ và liên kết giữa Chính phủ, ngành, chính quyền địa phương và doanh nghiệp ở cả ba yếu tố này thì việc chuyển đổi xanh mới có thể thành công.

Vậy ngoài yêu cầu phát triển xanh để tham gia chuỗi cung ứng, đâu là những rào cản lớn nhất đang khiến doanh nghiệp còn e dè và cần được tháo gỡ sớm, thưa ông?

Thách thức lớn nhất chính là tâm lý ngại thay đổi. Việc cải tạo một nhà máy hay quy trình đang vận hành ổn định là một vấn đề lớn. Đáng chú ý, chi phí để cải tạo một công trình hiện hữu sang chuẩn xanh có thể chiếm tới một nửa chi phí đầu tư ban đầu của toàn bộ tòa nhà đó.

Do đó, Nhà nước cần có những chính sách đồng bộ ngay từ đầu: bắt buộc các công trình xây mới phải đạt chuẩn xanh thì mới được cấp phép vận hành hoặc bán hàng. Nếu chúng ta cứ tiếp tục xây dựng mà không đưa tiêu chí xanh vào ngay từ đầu, thì sau này xã hội và ngân sách sẽ phải tốn một khoản chi phí cực kỳ lớn để cải tạo lại. Đó sẽ là một sự lãng phí rất lớn.

Bài toán quan trọng mà TP.HCM cần giải là cân bằng được giữa phát triển kinh tế và tính bền vững. Ảnh: Lê Toàn

Bài toán quan trọng mà TP.HCM cần giải là cân bằng được giữa phát triển kinh tế và tính bền vững. Ảnh: Lê Toàn

TP.HCM đang theo đuổi mục tiêu trở thành siêu đô thị của khu vực, đồng thời phải đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và giảm phát thải. Ông nhận định thế nào về những nỗ lực này của thành phố?

Tôi cho rằng đây là một thách thức rất lớn đối với TP.HCM vì khoảng cách giữa mong muốn và khả năng thực hiện vẫn còn xa. Khu vực TP.HCM cũ thì đang đối mặt với biến đổi khí hậu. Còn khi sáp nhập thêm với Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu thì câu chuyện kết nối vùng cũng đang là thử thách lớn.

Mục tiêu biến TP.HCM thành một siêu đô thị của Đông Nam Á đòi hỏi việc phát triển mạnh mẽ hạ tầng như sân bay, cảng biển, đường cao tốc. Tuy nhiên, việc song hành giữa phát triển hạ tầng, đô thị và bảo vệ môi trường là hai vấn đề hết sức khó khăn. Bài toán quan trọng là làm sao cân bằng được giữa phát triển kinh tế và tính bền vững.

Trong chiến lược đô thị xanh của TP.HCM, các công trình và tòa nhà xanh được xem là một cấu phần quan trọng. Theo ông, đâu là động lực then chốt để thúc đẩy xu hướng phát triển công trình xanh, khi chi phí đầu tư vẫn đang là rào cản?

Theo tôi, rào cản về chi phí sẽ sớm bị xóa bỏ bởi nhu cầu thực tế của thị trường. Hiện nay, nhiều tập đoàn đa quốc gia và ngay cả doanh nghiệp Việt Nam sẵn sàng trả giá mua hoặc thuê văn phòng cao hơn từ 30% đến 40% cho các công trình đạt chứng chỉ xanh tại trung tâm TP.HCM.

Đây chính là động lực lớn cho các nhà đầu tư bất động sản. Các mô hình văn phòng truyền thống nếu không chuyển đổi xanh thì trong tương lai giá thuê sẽ rất thấp hoặc đối mặt với tình trạng dư thừa, không cho thuê được.

Việc đạt được các chứng chỉ xanh quốc tế sẽ là "hành trang" để các dự án bất động sản có thể bán hoặc cho thuê hiệu quả trong tương lai.

Xin cảm ơn ông!

Theo Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, TP.HCM thể hiện quyết tâm thúc đẩy đô thị hóa theo hướng đô thị thông minh bền vững, có năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu, bảo đảm hiệu quả kinh tế - sinh thái. Ngoài ra, ưu tiên phát triển loại hình du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, phát triển sản phẩm du lịch xanh; tiêu dùng và mua sắm xanh, bền vững.

Theo đó, TP.HCM đặt mục tiêu giảm 10% phát thải vào năm 2030, phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và tiến tới nền kinh tế carbon thấp, phát triển bền vững. Bên cạnh đó, thành phố cũng chủ động tham khảo, hợp tác phối hợp trao đổi với các tổ chức quốc tế có kinh nghiệm để học hỏi, rút kinh nghiệm, hướng tới phát triển xanh, bền vững đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.

Trọng Tín thực hiện

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/phat-trien-sieu-do-thi-tphcm-va-yeu-cau-xanh-hoa-nganh-xay-dung-d466045.html