Phát triển thuốc bảo vệ thực vật sinh học: Vẫn vướng cả cơ chế lẫn người dùng
Ngành nông nghiệp đặt mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam là quốc gia đứng đầu khu vực về tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học.
Thuốc bảo vệ thực vật là loại vật tư nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát sâu bệnh, tránh ảnh hưởng năng suất cây trồng. Tuy nhiên, việc sử dụng, lạm dụng thuốc có thể gây ra nhiều hậu quả không mong muốn về an toàn thực phẩm, môi trường, đa dạng sinh học, hiện tượng kháng thuốc và bùng phát dịch hại,…
“Giải pháp sử dụng các biện pháp sinh học và thuốc bảo vệ sinh học thay thế thuốc hóa học là xu thế tất yếu, phù hợp với chiến lược tăng trưởng xanh và đạt được sự đồng thuận cao của các quốc gia trên thế giới”, PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, Phó chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam chia sẻ tại Diễn đàn “Thực trạng sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại Việt Nam và giải pháp phát triển bền vững”, tổ chức ngày 28/12.
Thống kê cho thấy, tổng giá trị thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học trên thế giới năm 2023 được dự báo là 6,7 tỷ USD. Năm 2028, con số này dự kiến tăng lên 13,9 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân về giá trị là 15,9%/năm.
Dự báo, năm 2040-2050, giá trị thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học sẽ bằng, thậm chí vượt giá trị thị trường thuốc hóa học.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Xuân Hồng, việc phát triển thuốc bảo vệ thực vật sinh học vẫn gặp một số rào cản, như hiệu lực chậm, thấp hơn và không ổn định; chuyên tính hẹp, không phong phú về chủng loại; thời gian bảo quản ngắn, dễ bị ảnh hưởng của môi trường, dễ bị lẫn tạp chất; sử dụng khó; chi phí sử dụng thuốc cao; thói quen sử dụng thuốc hóa học của người dân; quy định về đăng ký tại nhiều nước còn bất cập…
Trên cơ sở đó, ông Hồng cho rằng, quản lý thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại Việt Nam cần theo 3 hướng chính: Sản xuất trong nước; nhập khẩu từ nước ngoài; sản xuất quy mô nông hộ, trang trại, hợp tác xã để sử dụng.
Các chính sách lớn mà Việt Nam cần tập trung thực hiện đang được vị chuyên gia này đưa ra khá rộng, từ "hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức, hiểu biết về sử dụng có trách nhiệm thuốc bảo vệ thực vật" đến "tiếp thu, chọn lọc kinh nghiệm của thế giới để bổ sung, hoàn thiện và thực thi hiệu quả các quy định về quản lý thuốc bảo vệ thực vật"... Cùng với đó, các chính sách tài chính cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, sản xuất, cung ứng thuốc bảo vệ thực vật sinh học... cũng cần được ưu tiên.
Công tác đăng ký, quản lý thuốc bảo vệ sinh học cũng cần được đổi mới, theo hướng loại bỏ một số yêu cầu về số liệu thử nghiệm đối với các thuốc sinh học rủi ro thấp; Quy định về các trường hợp thuốc bảo vệ thực vật sinh học được ưu tiên đăng ký đặc cách; Tăng thời gian hiệu lực của giấy chứng nhận đăng ký thuốc bảo vệ sinh học lên 10-15 năm, thay cho 5 năm hiện nay; Bổ sung quy định chỉ cho phép thuốc bảo vệ thực vật sinh học được bán hàng online;…
Về phía cơ quan quản lý, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt nói rằng hiện nay, việc quản lý, đăng ký thuốc bảo vệ thực vật sinh học đang được ưu tiên hơn thuốc hóa học. Thời gian đăng ký, thời gian khảo nghiệm thuốc bảo vệ thực vật sinh học chỉ bằng 1/2 so với thuốc hóa học; chi phí đăng ký cũng giảm một nửa so với thuốc hóa học.
Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học còn nhiều hạn chế, mà nguyên nhân chủ yếu là nhận thức của người dân và các bên liên quan chưa đúng về hiệu lực, kỹ thuật sử dụng, hiệu quả kinh tế của thuốc bảo vệ thực vật sinh học.
Bên cạnh đó, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học phải tuân thủ theo đúng quy trình kỹ thuật hơn thuốc hóa học và giá thành của thuốc sinh học cao hơn cũng là rào cản cho việc sử dụng rộng rãi.
Theo ông Huỳnh Tấn Đạt, việc kiểm soát tồn dư hóa chất trong nông sản là nhiệm vụ hàng đầu; việc tuân thủ đầy đủ theo khuyến cáo sản xuất, lựa chọn hoạt chất thay thế cho các hoạt chất bị cấm ở những thị trường xuất khẩu là cần thiết để đảm bảo nông sản đủ điều kiện xuất khẩu. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường kiểm soát thêm các loại phụ gia và hoạt chất đi kèm, cũng như dụng cụ phun thuốc để đảm bảo nông sản tuyệt đối an toàn.
Vì vậy, mục tiêu thời gian tới của ngành bảo vệ thực vật là nâng tỷ lệ sản phẩm thuốc sinh học trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam lên 30% so với tổng số thuốc. Tăng lượng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học lên 30% so với tổng lượng thuốc sử dụng. Ít nhất 80% địa phương tập huấn về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học an toàn và hiệu quả cho người sử dụng.
Phấn đấu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học dẫn đầu trong trong khu vực.