PHÓ CHỦ NHIỆM ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, ĐBQH NGUYỄN THỊ MAI HOA: CẦN KHUNG KHỔ PHÁP LÝ THUẬN LỢI ĐỂ PHÁT HUY TỐI ĐA LỢI ÍCH TỰ CHỦ ĐẠI HỌC
Được kỳ vọng sẽ tạo nên cuộc cách mạng toàn diện cho giáo dục đại học, đến nay, tự chủ đại học đã đạt một số kết quả đáng khích lệ, tạo bước chuyển biến tích cực cả về nhận thức lẫn công tác tổ chức thực hiện. Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa, để có thể phát huy được tối đa những lợi ích do tự chủ đại học mang lại, cần thiết phải xây dựng được một khung khổ pháp lý thuận lợi nvới những bước đi hợp lý, cùng hệ thống giải pháp hợp lý, khả thi.
Chính thức luật hóa từ năm 2005, qua nhiều năm phát triển, vấn đề tự chủ trong giáo dục đại học Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đây được xem là một trong những động lực quan trọng để các trường phấn đấu, tự khẳng định mình trong cuộc cạnh tranh trên thị trường giáo dục đại học khu vực và toàn cầu.
Và sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 (gọi tắt là Luật 34) với tư tưởng chủ đạo là tự chủ đại học đã và đang tạo ra một sự đổi mới căn bản và toàn diện, đồng thời cũng là bước tiến lớn cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Phóng viên: Được kỳ vọng sẽ tạo nên cuộc cách mạng toàn diện cho giáo dục đại học, đến nay, tự chủ đại học đã đạt được những kết quả gì, thưa bà?
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa: Tự chủ đại học là một chủ trương lớn, được coi là giải pháp đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học (GDĐH) theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW. Việc đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học thời gian qua đã có chuyển biến tích cực, tác động tích cực tới hệ thống GDĐH trong thực hiện sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao gắn với phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thứ nhất, nhận thức về tự chủ đại học có chuyển biến tích cực, thống nhất trong quan điểm tiếp cận cũng như xác định rõ vai trò của tự chủ là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Khơi thông nhận thức sẽ mở đường cho cơ chế, chính sách, do vậy, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Thứ hai, hành lang pháp lý về tự chủ đại học tiếp tục được hoàn thiện, ngày càng đồng bộ hơn. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị Tự chủ đại học 2022, kể từ khi Luật số 34/2018/QH14 được thông qua và có hiệu lực thi hành, tính đến tháng 12.2022, cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền đã ban hành 27 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, trong đó có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến tự chủ đại học. Chẳng hạn như làm rõ thêm mối quan hệ giữa các thiết chế trong nhà trường theo hướng phân vai, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn để công tác quản trị, quản lý và điều hành hoạt động nhà trường một cách hợp lý hơn; đổi mới cơ chế tài chính, đồng thời nghiên cứu, đẩy mạnh xã hội hóa thông qua các hình thức hợp tác đối tác công tư trong GDĐH.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống GDĐH có nhiều chuyển biến, đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền cho cơ sở trong khuôn khổ pháp luật quy định. Công tác quản trị đại học đổi mới theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy, phát huy dân chủ; có sự linh hoạt, chủ động trong xây dựng và tổ chức các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng, góp phần bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, cơ chế tài chính đối với cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ được điều chỉnh, một mặt giúp các đơn vị đa dạng hóa nguồn lực đầu tư; mặt khác giúp các nhà trường có thêm nguồn lực để tái đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị và nâng cao chế độ đãi ngộ, cải thiện mức thu nhập cho cán bộ, giảng viên, thu hút, giữ chân đội ngũ cán bộ có năng lực yên tâm công tác.
Phóng viên: Liên quan đến những vướng mắc về tự chủ đại học, vấn đề mà bà đang trăn trở nhất hiện nay là gì?
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa: Mặc dù việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ đã giúp cải thiện, đổi mới hệ thống GDĐH và đạt được một số kết quả tích cực; nhưng thực tế được phản ánh từ các cơ sở GDĐH cho thấy, vẫn còn có sự nhầm lẫn đáng tiếc trong cách tiếp cận khái niệm tự chủ đại học, dẫn tới cách hiểu và vận dụng vào thực tiễn không thống nhất. Hoặc là hướng tiếp cận “tự chủ đại học” với nghĩa “tự quyết”, cơ sở GDĐH được hoàn toàn “tự do” quyết định mọi việc, và theo đó, phủ nhận vai trò của Nhà nước trong kiểm soát chất lượng, định hướng hoạt động của các trường. Hoặc là hướng tiếp cận “tự chủ đại học” chính là “tự túc”, và trường đại học muốn tự chủ toàn diện sẽ phải cân nhắc, đánh đổi giữa “tự chủ” với việc ngừng cấp ngân sách nhà nước cho nhà trường cả về chi thường xuyên lẫn chi đầu tư.
Câu chuyện “tự chủ” về mức chi nhưng chưa thực sự “tự chủ” về mức thu khiến việc thực hiện tự chủ không khác nhiều so với không tự chủ. Thời gian qua, do bị khống chế về trần học phí, không theo nguyên tắc “tính đúng, tính đủ”, thu không đủ chi, hệ quả là một số cơ sở GDĐH công lập buộc phải có những khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong sử dụng nguồn thu.
Cách tiếp cận không đúng, cách hiểu không trúng, đương nhiên sẽ gây lúng túng trong triển khai tổ chức thực hiện. Và đáng băn khoăn hơn, vai trò của Nhà nước đối với GDĐH chưa được xác định rõ; mối quan hệ giữa tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình cũng chưa thể rạch ròi. Đây là nguyên nhân tự chủ đại học mấy năm qua vẫn còn hình thức, chưa thể có hiệu quả thực chất.
Trên thực tế, hệ thống quy phạm pháp luật liên quan đến thực hiện tự chủ đại học còn có sự mâu thuẫn, chưa đồng bộ, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai, nhất là về tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, tài sản.
Với quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Nghị quyết số 29-NQ/TW xác định mục tiêu “Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở GDĐH, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế”. Tuy nhiên, mục tiêu ấy khó khả thi một khi mức đầu tư công cho GDĐH của Việt Nam chỉ đạt từ 4,33 - 4,74% tổng chi ngân sách cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo; và tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho GDĐH giai đoạn 2018 - 2020 chỉ đạt khoảng 0,27% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Đây là một thực tế cần được tổng kết, đánh giá và có hướng đầu tư thỏa đáng hơn để GDĐH Việt Nam hoàn thành sứ mệnh của mình.
Về nhân sự, Luật số 34/2018/QH14 trao thẩm quyền cho cơ sở GDĐH quyết định cơ cấu tổ chức, tuyển dụng, sử dụng, quản lý nhân sự. Tuy nhiên, nhân sự trong cơ sở GDĐH công lập hầu hết là viên chức - chịu sự điều chỉnh đồng thời bởi quy định của nhiều luật khác như Luật Viên chức, Luật Thi đua khen thưởng, Bộ luật Lao động… Do đó, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, thực hiện chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giảng viên đại học phải tuân thủ theo các quy định của các luật chuyên ngành.
Việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý trong nhà trường còn phải tuân theo các quy định của pháp luật và các quy định của Đảng về công tác tổ chức cán bộ; kể cả sự chi phối bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Đối với cả những chức danh quản lý mà Luật số 34/2018/QH14 đã quy định rõ là “do quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học quy định” cũng trong tình trạng này.
Về tổ chức, Luật số 34/2018/QH14 cho phép trường đại học thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp không cho phép cơ quan nhà nước “sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình”; không cho phép cán bộ, viên chức được “thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam”. Còn theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị không được “thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Rốt cục, việc thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong cơ sở GD ĐH vẫn khó khả thi trong thực tiễn.
Ngay cả thiết chế hội đồng trường được kỳ vọng sẽ tạo cú huých, thúc đẩy nhanh chóng việc dân chủ hóa trường học, góp phần nâng cao hiệu quả quản trị đại học theo hướng tự chủ; tuy nhiên, trên thực tế chưa thể phát huy hiệu quả như mong moon vì còn vô số vướng mắc.
Về tài chính, tài sản, Luật số 34/2018/QH14 đề cao tính tự chủ của các trường đại học về tự chủ tài chính. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa nguồn thu của các trường gặp nhiều rào cản bởi các quy định pháp luật liên quan. Chẳng hạn như Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Đất đai có một số quy định ràng buộc làm hạn chế các trường triển khai các hoạt động liên doanh, liên kết, cho thuê, góp vốn đầu tư; hay việc sở hữu và quyền khai thác kết quả nghiên cứu khoa học từ các công trình nghiên cứu cũng gặp nhiều khó khăn bởi các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Khoa học và Công nghệ. Nhiều quy định liên quan đến quy trình, thẩm quyền quyết định trong Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu cũng khiến các trường gặp nhiều khó khăn, chưa thể chủ động trong nhiều hoạt động liên quan đến mua sắm thiết bị, đầu tư công, xây dựng cơ bản.
Phóng viên: Vậy cần làm gì để tạo dựng được một khung khổ pháp lý thuận lợi giúp cho việc thực hiện tự chủ đại học đi vào thực chất, hiệu quả hơn trong thời gian tới, thưa bà?
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa: Tôi cho rằng, để có thể phát huy được tối đa những lợi ích do tự chủ đại học mang lại, cần thiết phải xây dựng được một khung khổ pháp lý thuận lợi giúp cho việc thực hiện tự chủ đại học đi vào thực chất, hiệu quả.
Để làm được điều đó, cần có quyết tâm cao, tiếp cận đúng hướng, nghiên cứu toàn diện, và thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình tự chủ đại học với những bước đi hợp lý, cùng hệ thống giải pháp hợp lý, khả thi.
Thứ nhất, nghiên cứu xác định mô hình tự chủ đại học phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Các quy định pháp luật về thực hiện tự chủ đại học hiện nay ở Việt Nam hiện nay cho thấy, cách tiếp cận về tự chủ đại học của Việt Nam chịu ảnh hưởng của mô hình tự chủ đại học ở châu Âu. Tuy nhiên, việc áp dụng, phát triển mô hình quản trị tự chủ toàn diện như một số quốc gia có nền giáo dục tiên tiến châu Âu là vô cùng khó khi điều kiện thực tiễn ở Việt Nam có những đặc thù riêng cả về thể chế chính trị, văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội.
Vì vậy, rất cần xác định một cơ chế phù hợp để có thể phát huy hiệu quả thực sự của thiết chế Hội đồng trường, trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự phối hợp của các thiết chế quyền lực trong nhà trường đại học; đồng thời, làm rõ mối quan hệ giữa nhà trường với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, đồng bộ và minh bạch hóa hệ thống quy phạm pháp luật về tự chủ đại học. Tự chủ đại học có thực sự đi vào cuộc sống hay không phụ thuộc rất nhiều vào các quy định có tính rõ ràng và khả thi của Luật cũng như hệ thống văn bản quy phạm hướng dẫn thi hành. Vì vậy, trước hết cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và Luật GDĐH phù hợp với điều kiện thực tiễn và có hiệu quả nhất, bảo đảm chính sách, pháp luật về tự chủ đồng bộ và cụ thể. Chẳng hạn, cụ thể hóa điều kiện, thẩm quyền và thủ tục giải thể hội đồng trường; nguyên tắc hoạt động và quan hệ phân cấp, phân quyền giữa hội đồng đại học với hội đồng trường thành viên; quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể về việc thành lập hội đồng trường (hay không) trong cơ cấu tổ chức của cơ sở GDĐH thuộc khối quốc phòng, an ninh.
Khung pháp lý về tự chủ đại học không chỉ được điều chỉnh bởi Luật GDĐH mà hoạt động GDĐH còn chịu sự điều chỉnh trực tiếp trong các luật liên quan, dẫn đến chồng chéo, vướng mắc cho các cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ. Chẳng hạn, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công không đồng bộ với Luật GDĐH trong việc cho phép cơ sở giáo dục được sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách; Luật Ngân sách Nhà nước không đồng bộ với Luật GDĐH trong việc quy định thẩm quyền phê duyệt kế hoạch, quyết toán tài chính... Do đó, cùng với việc sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH, cần quan tâm đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định trong các đạo luật có liên quan nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Thứ ba, đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho GDĐH. Cần nghiên cứu để quy định về cơ chế tài chính phù hợp với thực tiễn của Việt Nam theo hướng tăng phân quyền, giao thêm quyền tự chủ cho cơ sở GDĐH về tài chính, tài sản và đầu tư. Thay đổi phương thức đầu tư theo hướng chuyển từ đầu tư theo dòng kinh phí - hạng mục sang phân bổ kinh phí theo khoán kinh phí và cho phép cơ sở GDĐH được tự chủ, linh động sử dụng nguồn kinh phí đó theo nhu cầu phát triển một cách hiệu quả nhất theo khuôn khổ quy định pháp luật.
Đồng thời, xác định chi phí đào tạo bình quân và suất đầu tư của từng nhóm ngành đào tạo làm cơ sở cho việc tính đúng, tính đủ học phí; từ đó xác định mức học phí cần thu (trên cơ sở tổng chi phí đào tạo bình quân trừ đi khoản kinh phí hỗ trợ của Nhà nước) để bảo đảm chất lượng đào tạo. Nhà nước mở rộng phạm vi, đối tượng và giá trị hỗ trợ, cho vay đối với học sinh, sinh viên.
Ngoài ra, xem xét xây dựng lộ trình nâng tỷ trọng ngân sách nhà nước chi cho GDĐH tính trên GDP bắt kịp với các nước trong khu vực. Đầu tư tập trung cho một số cơ sở GDĐH mạnh, nhất là trong một số ngành, lĩnh vực ưu tiên để hình thành một số cơ sở GDĐH đẳng cấp quốc tế, tiên phong có vai trò, nhiệm vụ dẫn dắt hệ thống, tạo động lực dẫn dắt, phát triển khoa học, công nghệ và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, xây dựng chính sách cải cách tiền lương và đẩy mạnh quá trình tự chủ trong các trường đại học để tạo quyền chủ động cho các cơ sở GDĐH thu hút, giữ chân người tài, chuyên gia đầu ngành. Cùng với việc triển khai thực hiện xây dựng đề án vị trí việc làm, Nhà nước cần sớm ban hành chính sách cải cách tiền lương, cách chi trả tiền lương theo vị trí việc làm và hiệu quả công việc; đồng thời có giải pháp đẩy mạnh, đẩy nhanh hơn nữa quá trình tự chủ đại học gắn với trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH.
Thực tế, mặc dù chính sách tiền lương cho giảng viên thời gian qua có nhiều cải cách, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này gây khó khăn cho các cơ sở GDĐH công lập trong tuyển dụng và giữ chân giảng viên trẻ, nếu các trường không có chính sách hỗ trợ. Do vậy, cần nghiên cứu xây dựng chính sách phát huy quyền chủ động cho các cơ sở GDĐH trong chi trả tiền lương để có thể thu hút, tuyển dụng đội ngũ giảng viên trẻ, được đào tạo bài bản từ các nước tiên tiến trên thế giới, cũng như các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong nước và quốc tế.
Thứ năm, nâng cao năng lực thực hiện tự chủ; đổi mới quản trị đại học, thực hiện tự chủ đại học gắn với trách nhiệm giải trình. Đổi mới quản trị đại học là một tiến trình mang xu thế toàn cầu nhưng việc xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể của từng quốc gia, cơ sở GDĐH. Vì thế, cần có sự đổi mới về nhận thức và sự đồng thuận về chính trị từ các cơ quan quản lý đến các cơ sở GDĐH về sự cần thiết phải đổi mới quản trị đại học, đặc biệt đối với các cơ sở GDĐH công lập.
Tăng cường, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý và thực hiện đổi mới quản trị đại học gắn với thực hiện tự chủ đại học, tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH. Nhà nước chuyển vai trò từ kiểm soát sang giám sát, còn ở cấp trường, Nhà nước giao các cơ sở GDĐH quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình. Nâng cao năng lực đội ngũ lãnh đạo quản lý để có những năng lực mới phù hợp với yêu cầu của sự đổi mới.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn bà!
Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//hoatdongdbqh/pages/tin-hoat-dong-dai-bieu.aspx?itemid=83354