Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc: Chính phủ đã có một nhiệm kỳ kiến tạo hết sức đặc biệt
Một trong những điểm nhấn của nhiệm kỳ 2021-2025 là Chính phủ đã đổi mới toàn diện, từ tư duy đến cơ chế, nhằm kiến tạo không gian phát triển.
Trong hai ngày (29 và 30-10), Quốc hội sẽ dành phần lớn thời gian để thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội, tài chính ngân sách cùng nhiều nội dung quan trọng khác. Nhìn lại nhiệm kỳ 2021-2025, có lẽ một trong những điều đáng lưu ý là chính sách tài khóa trong bối cảnh hết sức khó khăn, phức tạp, khó lường của kinh tế trong nước và quốc tế.
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc, người “gắn chặt” với các chính sách tài khóa từ đầu nhiệm kỳ, nhấn mạnh chính sách tài khóa được triển khai trong năm năm qua nằm ở ba từ khóa là “nhân văn, kịp thời và linh hoạt”.

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc. Ảnh: QH
Một nhiệm kỳ hết sức đặc biệt
. Phóng viên: Thưa Phó Thủ tướng, điều hành chính sách tài khóa nhiệm kỳ 2021-2025 có lẽ không phải dễ dàng khi bối cảnh hết sức đặc biệt?
+ Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc: Tôi cho rằng dùng từ “đặc biệt” ở đây là chính xác. Đặc biệt ở chỗ đất nước ta phải đối mặt với những thách thức chưa từng có tiền lệ, từ đại dịch COVID-19 hoành hành toàn cầu đến các cuộc xung đột địa chính trị kéo dài như chiến tranh Nga - Ukraine và căng thẳng Trung Đông… khiến chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy, lạm phát leo thang và tăng trưởng kinh tế thế giới chững lại, thiên tai, bão lụt liên tục.
Dù vậy, chính sách tài khóa đã được điều hành một cách chủ động, linh hoạt, hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát dịch bệnh, phục hồi kinh tế - xã hội nhanh chóng và đặt nền tảng cho tăng trưởng cao, bền vững.
Kết quả, tăng trưởng GDP bình quân đã đạt 6,3%/năm - cao hơn nhiệm kỳ trước, đưa quy mô kinh tế Việt Nam vượt 510 tỉ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD/người. Thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước tính đạt 9,6 triệu tỉ đồng giai đoạn 2021-2025, gấp 1,36 lần so với giai đoạn 2016-2020 và vượt 26,4% dự toán… Điều này đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nền kinh tế.
Đó là thành công của cả hệ thống chính trị và sức mạnh của đoàn kết nhân dân. Là sự kết tinh từ chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ, sự đồng hành của Quốc hội và nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, cũng như sự vươn lên các thành phần kinh tế, thậm chí là quả cảm, hy sinh của nhân dân.

Dây chuyền sản xuất xe gắn máy tại nhà máy Honda Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Ảnh: TTXVN
. Chính sách tài khóa mở rộng có phải là bắt buộc trong bối cảnh dịch COVID-19 không, thưa ông?
+ Sự kết hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa mở rộng hợp lý là để chủ động hỗ trợ phục hồi nền kinh tế. Đặc biệt là “khoan sức dân”, hỗ trợ doanh nghiệp (DN) phục hồi và phát triển, đồng thời phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, linh hoạt, hiệu quả, bảo đảm an toàn tài chính.
Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội triển khai Nghị quyết 43/2024 với các gói hỗ trợ tài khóa chưa từng có, tổng quy mô thực hiện khoảng 1,5 triệu tỉ đồng, trong đó có 350.000 tỉ đồng để giãn, hoãn, miễn thuế phí từ 2020-2024, đầu tư hạ tầng, hỗ trợ lãi suất… đã giúp DN và người dân vượt qua khó khăn.
Không chỉ vậy, Chính phủ còn nêu cao tinh thần tiết kiệm, cắt giảm chi thường xuyên khoảng 1,5 triệu tỉ đồng để xây dựng, hoàn thành
3.245 km đường bộ cao tốc, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, đường dây 500 kV mạch 3, Lào Cai - Vĩnh Yên, dành kinh phí cho hạ tầng giao thông, ưu tiên chuyển nguồn cho đầu tư công - động lực chính của tăng trưởng.
Năm 2024, chúng ta tiết kiệm 10% chi hội nghị, công tác nước ngoài của các bộ, ngành, tương đương 5.000 tỉ đồng để bổ sung nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa 334.000 nhà tạm, nhà dột nát cho dân, hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát mà Chính phủ đã đề ra…
Nhiệm kỳ này thực sự là minh chứng cho tinh thần “chủ động, sáng tạo, trách nhiệm” của Chính phủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Quốc hội, giúp Việt Nam thuộc nhóm năm quốc gia tăng trưởng nhanh nhất châu Á.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Lễ ra mắt Quỹ Vaccine phòng, chống COVID-19 ngày 5-6-2021. Ảnh: VGP
Cuộc điện thoại lúc giữa đêm của Thủ tướng
. Trở lại thời điểm tháng 4-2021, khi ông bắt đầu nhiệm vụ bộ trưởng Bộ Tài chính và lúc đó biến thể mới của dịch COVID-19 hoành hành. Chắc hẳn ông còn nhớ cuộc điện thoại giữa đêm của Thủ tướng Phạm Minh Chính về việc hình thành Quỹ vaccine?
+ Tháng 4-2021 là một thời điểm khắc nghiệt, khi tôi chính thức nhận nhiệm vụ bộ trưởng Bộ Tài chính và biến thể Delta của dịch COVID-19 bắt đầu lan rộng, cả nước phải phong tỏa nghiêm ngặt, đặc biệt tại TP.HCM và các tỉnh phía Nam. Kinh tế tê liệt, chuỗi cung ứng đứt đoạn, thất nghiệp tăng vọt - đây là lúc chúng ta nhận ra rằng vaccine chính là “chìa khóa vàng” để mở cửa phục hồi.
Tôi vẫn nhớ như in cuộc điện thoại gần giữa đêm của Thủ tướng Phạm Minh Chính. Khoảng 22 giờ ngày 28-5-2021, Thủ tướng gọi trực tiếp, quyết liệt: “Đồng chí Phớc ơi, chúng ta phải lập Quỹ vaccine ngay lập tức, huy động mọi nguồn lực xã hội để mua vaccine nhanh nhất có thể”. Đó là chỉ đạo khẩn trương, thể hiện tinh thần hành động quyết liệt của người đứng đầu Chính phủ và chúng tôi - Bộ Tài chính - đã hoạt động, làm việc thâu đêm suốt sáng để hoàn thiện hồ sơ.
Chúng tôi làm việc xuyên đêm, đúng 7 giờ 30 sáng hôm sau, Bộ Tài chính đã tham mưu trình Thủ tướng ban hành quyết định thành lập Quỹ Vaccine phòng, chống COVID-19, do Bộ Tài chính quản lý. Quỹ được ra mắt công khai vào ngày 5-6-2021 với sự tham dự của Thủ tướng, Thường trực Ban Bí thư và hàng ngàn DN, cá nhân.
Và kết quả, như chúng ta đã biết, vượt mong đợi. Từ ngày thành lập đến nay, quỹ đã nhận hơn 10.791 tỉ đồng từ 693.476 lượt ủng hộ. Cùng với NSNN và tài trợ vaccine của các tổ chức quốc tế, chúng ta đã có đủ vaccine cho toàn dân, đẩy lùi được đại dịch. Nhờ đó, chúng ta kiểm soát được dịch, mở cửa kinh tế từ tháng 10-2021, GDP quý IV tăng 5,2%, cao hơn dự báo quốc tế.
Đây là bài học quý rằng “trong khủng hoảng, hành động nhanh, kêu gọi bằng trái tim, huy động nguồn lực từ tấm lòng xã hội là chìa khóa thành công”.

Rất nhiều chính sách tài khóa đã được áp dụng, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Ảnh: NGUYỆT NHI
. Giờ nhìn lại, chắc ông cũng băn khoăn làm sao mà trong hoàn cảnh khó khăn như vậy Nhà nước vẫn đủ nguồn lực để có thể thực hiện một chính sách tài khóa mở rộng khi giãn, hoãn, miễn nhiều khoản thuế, phí, thậm chí còn hỗ trợ tiền điện cho dân…
+ Trực tiếp tham mưu các chính sách tài khóa cho Chính phủ, chúng tôi không băn khoăn gì bởi đây là sự chủ động, sáng tạo, quyết tâm cao của ngành tài chính. Còn nếu nhìn từ bên ngoài thì đây đúng là một “nghịch lý”, song đó có thể nói là một nghịch lý “thú vị”.
Trong bối cảnh khó khăn như vậy, chúng ta vẫn triển khai mở rộng quy mô hỗ trợ, đồng thời quản lý chặt chẽ, tiết kiệm để bảo đảm sự bền vững. Lý do cốt lõi nằm ở sự chủ động dự báo, huy động nguồn lực hợp lý, sáng tạo, quản lý, điều hành linh hoạt.
Tổng gói hỗ trợ tài khóa giai đoạn 2020-2024 đạt khoảng 700.000 tỉ đồng - tương đương 4,27% GDP năm 2020 nhưng vẫn kiểm soát bội chi ở mức 3,1%-3,2% GDP, nợ công ở ngưỡng an toàn rất cao và bền vững.
Chính phủ đã đề xuất các chính sách tài khóa theo hướng mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, hợp lý, bảo đảm nguồn lực hướng vào phục hồi sản xuất và an sinh. Đồng thời, ưu tiên hỗ trợ trực tiếp cho DN và người dân bị ảnh hưởng nặng do dịch COVID-19 phục hồi.
Điều này giúp DN được hỗ trợ kịp thời, người dân cảm nhận an sinh và nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao sự ổn định tài chính của Việt Nam, với xếp hạng tín nhiệm BB+ từ Fitch. Đây là minh chứng cho nguyên tắc “hỗ trợ để tự lực” , giúp kinh tế phục hồi nhanh, GDP 2022 tăng 8,02% - cao nhất khu vực.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam đã chứng minh rất rõ “sức mạnh của tự lực, tự cường” nhờ Đảng dẫn lối, Quốc hội đồng thuận, Chính phủ quyết tâm, địa phương nỗ lực, nỗ lực, chủ động, sáng tạo của cộng đồng DN và quan trọng hơn hết là sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân.

Năm 2025, Chính phủ tiếp tục duy trì các gói hỗ trợ tài khóa, tăng vốn đầu tư công và thúc đẩy giải ngân, kết hợp với phát triển kinh tế tư nhân và đồng bộ với việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp... Ảnh: VGP
Duy trì lãi suất ổn định, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng
. Trong nhiệm kỳ qua, dường như có những lúc, những thời điểm chính sách tài khóa chưa đủ kiên quyết hoặc chưa thuận chiều?
+ Đúng là trong nhiệm kỳ này, chúng ta cũng có nhiều “bài học” cần rút kinh nghiệm. Chẳng hạn về thuế đánh vào các mặt hàng hàng xa xỉ, chính sách chưa kiên quyết do lo ngại ảnh hưởng tiêu dùng cao cấp và thu hút đầu tư, dẫn đến vấn đề chưa công bằng về thuế. Năm 2022, thuế tiêu thụ đặc biệt rượu vang chỉ 35%, thấp hơn so với khu vực, khiến thất thu 5.000 tỉ đồng từ hàng nhập lậu; năm 2023, xe sang nhập khẩu thuế 50%-150% nhưng chậm trễ kiểm soát, dẫn đến buôn lậu tăng 20%.
Hay có những lúc chưa thực sự đồng thuận giữa chính sách tài khóa - tiền tệ. Chẳng hạn, năm 2022, tài khóa mở rộng hỗ trợ 100.000 tỉ đồng nhưng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thắt chặt tín dụng nhằm giữ lạm phát dưới 4,5%, khiến DN khó vay vốn. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhiều lần lưu ý tại các hội nghị Chính phủ, nhấn mạnh “phối hợp chặt chẽ, tránh chồng chéo”.
Nguyên nhân chủ yếu là do môi trường bất ổn, đặt ra quá nhiều vấn đề cấp thiết. Dịch bệnh đòi hỏi hỗ trợ nhanh nhưng dữ liệu dự báo chưa đầy đủ, cơ chế phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN cần đồng bộ hơn.
Để giải quyết, chúng ta thành lập Tổ công tác liên ngành năm 2023, họp hằng quý đánh giá đồng bộ. Năm 2024, điều chỉnh thuế xa xỉ lên 60% cho túi xách, đồng hồ cao cấp, thu thêm 10.000 tỉ đồng, kết hợp với NHNN nới lỏng chính sách, hạ lãi suất, thúc đẩy tín dụng lên mức 14%-16%.
Năm 2025, tiếp tục duy trì các gói hỗ trợ tài khóa, tăng vốn đầu tư công và thúc đẩy giải ngân, kết hợp với phát triển kinh tế tư nhân và đồng bộ với việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp, nới thêm tăng trưởng tín dụng, linh hoạt điều hành tỉ giá… Những chính sách này giúp tăng trưởng GDP chín tháng đạt 7,82% và lạm phát vẫn được kiểm soát dưới 4%.
Cũng trong năm nay, chúng ta thúc đẩy vốn đầu tư công kỷ lục và tăng trưởng tín dụng cũng lập mức cao nhất. Như vậy, sự phối hợp, đồng thuận giữa các chính sách quan trọng đã cho kết quả cải thiện rõ rệt.

Nhiệm kỳ 2021-2025, gần 4.300 quy định kinh doanh đã được cắt giảm, cải cách hành chính mạnh mẽ, giúp số doanh nghiệp tăng từ 800.000 lên 1 triệu.
. Một trong những điểm nhấn trong nhiệm kỳ này là đổi mới, kiến tạo trong chính sách tài khóa và tiền tệ. Ông có thể chia sẻ cụ thể những sáng kiến nào đã được triển khai và tạo tác động ra sao?
+ Chính phủ đã đổi mới toàn diện, từ tư duy đến cơ chế, nhằm kiến tạo không gian phát triển. Đầu tiên là hoàn thiện thể chế tài chính NSNN, sửa đổi Luật NSNN để nâng cao vai trò chủ đạo của NSNN trung ương, đồng thời tăng phân cấp cho địa phương theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Gần 4.300 quy định kinh doanh đã được cắt giảm, cải cách hành chính mạnh mẽ, giúp số DN tăng từ 800.000 lên 1 triệu.
Thứ hai, đẩy mạnh chuyển đổi số trong tài chính. Cụ thể, triển khai thanh toán không dùng tiền mặt toàn diện, xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia, tiết kiệm 3.000 tỉ đồng/năm từ Đề án 06. Chính phủ cũng cơ cấu lại NSNN, tăng tỉ trọng chi đầu tư phát triển, tập trung vào hạ tầng chiến lược như sân bay Long Thành, đường dây 500 kV.
Về kiến tạo, xử lý tồn đọng dự án giải phóng 675.000 tỉ đồng, thu hút FDI 185 tỉ USD. Những đổi mới này không chỉ nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực mà còn tạo động lực cho tăng năng suất lao động lên 6,85%/năm, đưa chỉ số đổi mới sáng tạo xếp hạng 44/139 quốc gia.
Cùng với đó, nâng cao vai trò các thị trường tài chính, huy động và thúc đẩy các nguồn lực vốn trong nước và quốc tế, tạo ra dòng chảy vốn trung, dài hạn ổn định, bền vững cho phát triển kinh tế.
Với chính sách tiền tệ, tiếp tục duy trì chính sách lãi suất hợp lý, ổn định, điều hành tỉ giá linh hoạt, chủ động, để vừa thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đưa vốn vào nền kinh tế nhưng mặt khác phải đảm bảo minh bạch, đúng đích và bền vững.
Và điều quan trọng như tôi đã nói ở trên, chính sách tài khóa và tiền tệ phải đồng bộ, đồng thuận, hỗ trợ nhau để phát triển kinh tế.

Với những chính sách đưa ra cùng nền tảng từ nhiệm kỳ này, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt tăng trưởng cao, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045.
Sản xuất, kinh doanh - nền tảng vững vàng cho tăng trưởng
. Riêng với chính sách tài khóa, với dự toán NSNN năm 2026 và giai đoạn 2026-2030, Chính phủ sẽ tiếp tục những định hướng nào để chính sách tài khóa hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng hai con số?
+ Những thành công như thu NSNN vượt dự toán, đầu tư công dẫn dắt tăng trưởng và hỗ trợ kịp thời sẽ được đúc rút thành nền tảng cho nhiệm kỳ 2026-2030, với mục tiêu tăng trưởng hai con số, thu NSNN 16,1 triệu tỉ đồng.
Chúng ta cũng sẽ rút ra bài học từ việc thiếu kiên quyết khi đánh thuế hàng xa xỉ thông qua cải cách thể chế, số hóa và phối hợp.
Tuy nhiên, điều quan trọng, tôi vẫn cho rằng cần làm sao để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh mới là nền tảng vững vàng nhất. Sản xuất, kinh doanh có phát triển thì mới hỗ trợ được cho DN trong các ngành nghề chiến lược, mới có thể bảo đảm an sinh khi tạo ra nhiều việc làm, mới giúp được người nghèo thoát nghèo bền vững. Chỉ có như vậy thì tài khóa mới là động lực phát triển bền vững.
Chính phủ đã xây dựng dự toán thu NSNN gấp 1,7 lần giai đoạn trước, tập trung tăng thu nội địa bền vững qua chống thất thu, mở rộng cơ sở thuế.
Chính sách tài khóa sẽ chủ động hơn, ưu tiên đầu tư công trọng điểm, thu hút PPP để giảm áp lực nợ công, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế giám sát, kỷ luật tài chính chặt chẽ, gắn trách nhiệm người đứng đầu. Mục tiêu là giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát dưới 4%, hỗ trợ chuyển đổi xanh và số hóa.
Với nền tảng từ nhiệm kỳ này, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt tăng trưởng cao, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045.
. Xin cảm ơn Phó Thủ tướng.
Từ “cái khó” tạo ra “cái mới”
Sự linh hoạt trong chính sách tài khóa đó là mở rộng khi cần kích thích, thu hẹp khi kiểm soát rủi ro, kết hợp khi cân bằng, chính là “chìa khóa” thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, vốn là nguồn sống của thu NSNN.
Trong nhiệm kỳ, sự linh hoạt này giúp chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng trung bình 8%/năm, DN đăng ký mới tăng 10%, đóng góp 60% GDP. Không cứng nhắc, chúng ta điều chỉnh theo chu kỳ: Mở rộng hỗ trợ hậu dịch COVID-19, thu hẹp chống lạm phát 2022-2023, kết hợp thúc đẩy xanh 2024-2025.
Cụ thể, năm 2021, khi Chính phủ trình Quốc hội gia hạn nộp thuế VAT sáu tháng cho ngành chế biến, giá trị 50.000 tỉ đồng, giúp IIP tăng 4,5%, dù nhiều địa phương phải phong tỏa, một số DN thực phẩm vẫn duy trì sản lượng 100%.
Năm 2022, miễn thuế thu nhập DN 20% cho dự án công nghệ cao, thu hút Intel đầu tư 1 tỉ USD, tăng sản xuất, kinh doanh điện tử 18%. Năm 2023, giảm chi thường xuyên 15% (tiết kiệm 200.000 tỉ đồng) để hỗ trợ vay 0% lãi cho SMEs xuất khẩu, giúp dệt may tăng 15% sản lượng, xuất khẩu đạt 44 tỉ USD.
Năm 2024, chúng ta tăng thuế môi trường xăng dầu 10% để kiểm soát lạm phát nhưng bù đắp bằng giảm thuế carbon cho DN xanh, giúp ngành ô tô điện có điều kiện phát triển. Qua đó, ngân sách cũng thu được một khoản lớn từ tăng thuế gián thu 20%.
Sự linh hoạt này không chỉ giải quyết những “cái khó” mà còn tạo ra những “cái mới”, với 150.000 DN thành lập mới năm 2025. Tài khóa là “người bạn đồng hành” của sản xuất, kinh doanh là vì vậy.
Phó Thủ tướng HỒ ĐỨC PHỚC
*****
Ý KIẾN:
Đại biểu HOÀNG VĂN CƯỜNG (đoàn TP Hà Nội):
Phải vượt qua được bẫy thu nhập trung bình
Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành một nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta phải vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”.
Kinh nghiệm của nhiều nước ở khu vực châu Á khi “hóa rồng” trở thành nước có thu nhập cao cho thấy họ đều phải có một giai đoạn tăng trưởng đột phá, bứt tốc để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Tốc độ tăng trưởng của các quốc gia này trong giai đoạn đó đều đạt xấp xỉ hai con số hoặc trên hai con số trong một khoảng thời gian ổn định. Nếu chúng ta muốn trở thành nước phát triển có thu nhập cao thì cũng phải có một giai đoạn đột phá, bứt tốc về kinh tế như vậy.
-----
Đại biểu NGUYỄN NGỌC SƠN (đoàn TP Hải Phòng):
Cần cải cách từ bên trong
Với sự điều hành rất quyết liệt, linh hoạt, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn nội tại, nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng tốt mọi cơ hội thì Chính phủ đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Trong đó, kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng cao, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài được kiểm soát đều dưới 36%...
Bên cạnh kết quả đạt được, Chính phủ cũng thẳng thắn chỉ ra các hạn chế, bất cập và những thách thức, đưa ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong năm 2026.
Qua nghiên cứu báo cáo của Chính phủ và thực tế giám sát thời gian qua, Chính phủ cần có các giải pháp mà trước hết là để ổn định kinh tế vĩ mô. Bởi kinh tế vĩ mô có mối quan hệ gắn kết với tăng trưởng, phát triển kinh tế. Nếu chúng ta đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số thì phải đảm bảo được ba phương diện then chốt như báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế Tài chính đã đặt ra.
Cụ thể, chúng ta có áp lực giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong môi trường toàn cầu rất nhiều rủi ro. Yêu cầu điều hành chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phải linh hoạt, vừa hỗ trợ tăng trưởng theo mục tiêu đề ra vừa kiểm soát lạm phát và giá. Đây là một mục tiêu rất khó.
Cuối cùng, cần sự tập trung quyết liệt. Mục tiêu tăng trưởng cao nên rất cần tập trung vào cải cách nội tại, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước và thúc đẩy giải ngân đầu tư công, tận dụng cơ hội từ chuyển đổi xanh và số.
-----
TS NGUYỄN QUỐC VIỆT, ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội:
Chủ động và quyết liệt
Thành tựu lớn nhất của chính sách tài khóa trong giai đoạn 2021-2025 là khả năng duy trì ổn định tài khóa và tạo không gian vĩ mô cần thiết để đối phó với khủng hoảng. chính sách tài khóa giai đoạn 2021-2025 được xây dựng với mục tiêu cân bằng giữa tăng trưởng nhanh, bền vững, hiệu quả và bao trùm.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao, chính sách tài khóa đã được định hướng là mở rộng. Việc này đòi hỏi đầu tư công phải đạt 8%-9% GDP. Ưu điểm cốt lõi của chính sách tài khóa Việt Nam trong giai đoạn này nằm ở khả năng kiểm soát kỷ luật tài khóa.
Việc duy trì nợ công ở mức thấp/GDP không chỉ giúp Việt Nam tránh được rủi ro khủng hoảng nợ mà còn củng cố niềm tin của nhà đầu tư, cho phép quốc gia có khả năng huy động vốn rẻ hơn, tạo ra “dư địa tài khóa” trong những năm sau dịch COVID-19 để ứng phó với các cú sốc bên ngoài và các khó khăn kinh tế bên trong.
Chính sách tài khóa đã thể hiện vai trò phản ánh chu kỳ một cách chủ động và quyết liệt. Nhiều giải pháp được triển khai nhằm giảm gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp và người dân, bao gồm giảm, miễn, hoãn thuế, phí và lệ phí trên diện rộng. Bên cạnh đó, chính sách giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng xuống 8%, được gia hạn đến cuối năm 2026 đã hỗ trợ tăng trưởng thông qua kích hoạt thị trường trong nước.
Có hai điểm hạn chế trong CSTK, đó là tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư công thấp và hiệu quả đầu tư nhà nước nói chung, đầu tư công nói riêng chưa cao, chưa thực sự tác động lan tỏa như kỳ vọng là một điểm yếu cố hữu.
Áp lực lớn nhất (ngắn/trung hạn) là dù dư địa CSTK vẫn còn nhưng việc yếu kém khâu triển khai thực thi và giải ngân khiến chính sách tiền tệ phải nới lỏng mạnh mẽ trong thời gian qua gây nguy cơ rủi ro hệ thống và mất kiểm soát lạm phát. Áp lực thứ 2 là đảm bảo ổn định nguồn thu trong lúc phải tái cơ cấu thu NS bền vững qua đó đảm bảo dư địa cho các CSTK trong tương lai.
CHÂN LUẬN ghi














