Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc: Kỳ vọng Việt Nam trở thành trung tâm đổi mới của khu vực
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc: 'Tôi rất kỳ vọng với 'bộ tứ nghị quyết chiến lược', Việt Nam sẽ trở thành trung tâm đổi mới của khu vực khi khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành một trong những động lực thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng GDP trên 10%/năm'.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, Bộ Chính trị đã ban hành “bộ tứ nghị quyết chiến lược”. Đặc điểm chung của bốn nghị quyết, ngoài các định hướng chiến lược thì đều có những cơ chế tài chính đặc thù, đặc biệt để triển khai phù hợp thực tiễn.
Đặc biệt, với Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST&CĐS) quốc gia, những cơ chế tài chính đặc biệt, đặc thù đã được tích hợp và nâng tầm nhằm đạt được những mục tiêu rất tham vọng.
Trao đổi với báo Pháp Luật TP.HCM, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc cho hay: “Nghị quyết 57 nhấn mạnh việc huy động nguồn lực tài chính để tạo bước ngoặt trong lĩnh vực KHCN, ĐMST&CĐS quốc gia, nhằm đạt mục tiêu kinh phí chi nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 2% GDP vào năm 2030”.
Cần có cơ chế tài chính linh hoạt
. Phóng viên: Thưa Phó Thủ tướng, Nghị quyết 57 được các nhà khoa học, doanh nghiệp (DN) trong lĩnh vực KHCN, ĐMST đón nhận rất hồ hởi. Ông lý giải điều này như thế nào?
+ Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc: Việt Nam đang cơ cấu, chuyển đổi từ cơ cấu mô hình tăng trưởng truyền thống vốn dựa vào vốn, tài nguyên với năng suất lao động thấp sang mô hình năng suất lao động cao dựa trên KHCN cao, kinh tế số, ĐMST. Vì vậy, KHCN là nền tảng và động lực cho sự phát triển. Hơn nữa, KHCN cao cũng là xu hướng của thế giới hiện đại.
Nghị quyết 57 như chúng ta biết, xác định KHCN, ĐMST&CĐS là trụ cột chính để Việt Nam phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên số. Nghị quyết đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tiềm lực KHCN đạt mức tiên tiến, thuộc nhóm dẫn đầu các nước thu nhập trung bình cao; kinh tế số chiếm 30% GDP; xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao đạt 50% tổng giá trị xuất khẩu. Đến năm 2045, chúng ta hướng tới kinh tế số chiếm 50% GDP và trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ số khu vực.
Những mục tiêu lớn, mang tầm thời đại như vậy chắc chắn sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các DN, cơ hội việc làm cho xã hội và cơ hội cho cả đất nước.

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc
. Nghị quyết 57 đặt mục tiêu kinh phí R&D đạt 2% GDP vào năm 2030, với ít nhất 3% ngân sách nhà nước (NSNN) hằng năm dành cho KHCN và CĐS. Theo ông, cơ chế tài chính cốt lõi để đạt được mục tiêu này là gì?
+ Mục tiêu xuyên suốt của chúng ta luôn là giữ vững các cân đối của nền kinh tế, điều hành chính sách tài khóa phù hợp, tiết kiệm chi thường xuyên, ưu tiên bố trí ngân sách cho KHCN, đặc biệt là hạ tầng (cáp quang, đường truyền, 5G, công nghệ lõi, AI, cơ sở dữ liệu, nguồn nhân lực...). Đồng thời, lấy ngân sách là “vốn mồi”, huy động, thu hút DN đầu tư với cơ chế phù hợp. Làm sao để người người sáng kiến, sáng tạo; các ngành, các địa phương, DN tiên phong áp dụng KHCN.
Ngoài mục đích tạo đột phá, Nghị quyết 57 còn tạo nền tảng xây dựng một hệ thống tài chính linh hoạt, hiệu quả cho KHCN, ĐMST&CĐS quốc gia. Cơ chế tài chính cốt lõi ở đây là sự kết hợp giữa NSNN làm “ngòi nổ”, làm “vốn mồi” để huy động nguồn lực xã hội hóa, đặc biệt qua các quỹ đầu tư và hợp tác công tư (PPP).
Bởi lẽ NSNN không phải là nơi mà mọi đột phá đều trông chờ vào mà NSNN dành cho lĩnh vực này cần phải là nền tảng, là động lực để tạo ra một hệ sinh thái tài chính nơi DN, nhà đầu tư tư nhân và quốc tế cùng tham gia.
Cơ chế tài chính là một trong những yếu tố then chốt để triển khai Nghị quyết 57 cũng như các nghị quyết khác của Trung ương. Vì không có nguồn lực tài chính bền vững, mọi mục tiêu chỉ dừng lại ở… nghị quyết.
Nghị quyết nhấn mạnh rằng chi cho R&D phải đạt 2% GDP vào năm 2030, trong đó xã hội góp hơn 60%. Nhà nước phải bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho KHCN, tăng dần theo nhu cầu. Đây không chỉ là con số, mà là cam kết để đầu tư vào hạ tầng số, nhân lực chất lượng cao và các công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), 5G, bán dẫn.
Như vậy, nếu không có cơ chế tài chính linh hoạt, chúng ta sẽ khó thu hút đầu tư từ DN và quốc tế, dẫn đến tụt hậu so với khu vực.

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc (hàng đầu tiên, thứ hai từ phải qua) và đoàn đại biểu Việt Nam tham quan các gian hàng của doanh nghiệp Việt Nam tại Hội chợ Trung Quốc - ASEAN. Ảnh: TTXVN
Tránh tình trạng "tiền nằm im trong két"
. Các quốc gia nổi tiếng về khởi nghiệp như Israel chẳng hạn đã thực hiện các cơ chế tài chính linh hoạt từ khá lâu. Việt Nam rút ra được những kinh nghiệm gì trong triển khai Nghị quyết 57?
+ Israel đúng là một ví dụ điển hình. Chính phủ nước này dành 4,5% GDP cho R&D. Tuy nhiên, trong 4,5% GDP này thì các quỹ đầu tư tư nhân chiếm tới 80%. Việt Nam đã thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm dành cho khởi nghiệp sáng tạo và cũng thu hút được nguồn lực từ khu vực tư nhân.
Dĩ nhiên, để triển khai định hướng này thì không chỉ các định hướng trong Nghị quyết 57, mà các định hướng trong Nghị quyết 59, 66, 68 của Bộ Chính trị đã mở đường sửa đổi, hoàn thiện hàng chục bộ luật hoàn thiện như Luật NSNN, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu… Những hoạt động lập pháp này đã kiến tạo một môi trường đầu tư - kinh doanh thông thoáng hơn, góp phần thu hút đầu tư vào KHCN, CĐS, phát triển DN hiệu quả hơn.
Chẳng hạn, Luật NSNN cho phép các cơ chế tự chủ lớn hơn, giảm thủ tục hành chính và thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Điều này sẽ giúp các viện nghiên cứu nhanh chóng triển khai dự án, tránh tình trạng “tiền nằm im trong két” hay tình trạng chồng hóa đơn dày hơn những luận án khoa học.

Hoạt động kiểm tra tấm wafer - nguyên liệu để sản xuất sản phẩm cho chất bán dẫn tại nhà máy của Công ty TNHH Hana Micro Vina chuyên sản xuất chip bán dẫn tại Khu công nghiệp Vân Trung, huyện Việt Yên, Bắc Giang. Ảnh: TTXVN
. Như vậy, trong cơ chế tài chính này, vai trò của đầu tư tư nhân cũng rất quan trọng?
+ Điều này đã được Nghị quyết 57 nhấn mạnh khi đề cập việc xây dựng cơ chế PPP cho hạ tầng số và công nghệ chiến lược, trong đó Nhà nước làm vai trò dẫn dắt, tư nhân đảm nhận vận hành và đầu tư.
Cơ chế tài chính này đã được thực thi trong thực tiễn, chẳng hạn dự án hạ tầng 5G tại TP.HCM chính là sự hợp tác giữa Viettel và Ericsson hay chương trình hợp tác giữa Bộ NN&PTNT (trước đây) với Bayer vào công nghệ sinh học, phát triển giống lúa kháng hạn tại ĐBSCL. Những dự án “công - tư” này đến nay vẫn phát huy hiệu quả.
Nhà nước tạo "sân chơi" cho DN, cá nhân
. Nghị quyết 57 có đề cập đến việc hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm và khuyến khích mua sắm công cho sản phẩm nội địa. Định hướng này nên được triển khai như thế nào để vừa khuyến khích, vừa bảo đảm an toàn cho DN, nhà khoa học?
+ Cơ chế đột phá này nhằm khuyến khích sáng tạo và tự chủ công nghệ. Theo đó, Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ được hình thành với vốn nhà nước dùng làm động lực, tiền đề thu hút tư nhân, tập trung vào startup công nghệ cao. Dự kiến vốn ban đầu là 10.000 tỉ đồng với cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho thất bại do yếu tố khách quan, khuyến khích thử nghiệm.
Thực ra một số quỹ tại Việt Nam đã thực hiện cơ chế này khi đầu tư vào AI áp dụng trong các lĩnh vực như logistics và đến nay vẫn phát huy được hiệu quả, tạo được động lực trong ứng dụng KHCN cao.
Đối với mua sắm công ưu tiên sản phẩm nội địa, với tỉ lệ ít nhất 50% trong các dự án nhà nước thì cơ chế này cũng đã được thực hiện. Nghị quyết 57 thì định hướng quyết liệt hơn và đã được thể chế hóa bằng nghị quyết của Quốc hội. Một số chương trình trong nước đã mua các sản phẩm nội địa thay vì nhập khẩu, giúp tiết kiệm được chi phí và hỗ trợ được DN trong nước.

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc làm việc với lãnh đạo Tập đoàn Airbus, trao đổi về việc mở rộng đầu tư và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực hàng không - vũ trụ, vệ tinh và số hóa hàng không cho các đối tác Việt Nam vào tháng 10-2024. Ảnh: VGP
. NSNN chưa hẳn đã dồi dào trong khi nhiều chương trình cũng rất cần tiền, thậm chí rất nhiều tiền. Vậy thì huy động nguồn lực trong nước hẳn là chưa đủ?
+ Vấn đề này cũng đã được thảo luận rất nhiều, rất chi tiết. Như tôi nói ở trên, NSNN chỉ là “hạt nhân” trong đột phá KHCN, ĐMST&CĐS. Điều quan trọng là phải khơi dậy nguồn lực xã hội bằng các cơ chế tài chính linh hoạt, các thiết chế bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, nghiên cứu khoa học, quyền sáng tạo cũng như cơ chế miễn trừ trách nhiệm mà nghị quyết đã định hướng.
Nghị quyết 57 đặt mục tiêu xã hội góp hơn 60% chi phí cho R&D, nghĩa là DN, cá nhân và đầu tư nước ngoài được tạo điều kiện để tham gia rộng hơn, sâu hơn. Nhà nước sẽ tạo ra các cơ chế, “sân chơi” như sàn giao dịch dữ liệu quốc gia, nơi dữ liệu trở thành tài sản có giá trị kinh tế, tạo nguồn thu mới. Song song đó, sẽ có các cơ chế thúc đẩy các quỹ đầu tư chiến lược, khuyến khích DN lớn đầu tư vào startup.
Triển khai định hướng của Nghị quyết 57, Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác với các tổ chức như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các đối tác chiến lược toàn diện như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc để tiếp cận vốn ODA, FDI tập trung vào công nghệ.
Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 4 về tài chính cho phát triển (FfD4) hồi tháng 7, tôi cũng đã đề xuất khơi thông nguồn tài chính phục vụ phát triển các động lực tăng trưởng mới, bao gồm CĐS. Chúng ta cũng cần cải cách thuế để thu hút nhân tài nước ngoài, như visa dài hạn cho chuyên gia AI với ưu đãi về thuế.
Nhìn chung, cơ chế tài chính phải bình đẳng, minh bạch giữa các thành phần kinh tế thì mới thu hút được các nguồn lực để tạo đột phá cho KHCN, ĐMST&CĐS quốc gia.
Tạo niềm tin, tâm thế sẵn sàng
. Vậy theo ông, thách thức lớn nhất trong triển khai cơ chế tài chính này là gì và giải pháp nào để vượt qua các thách thức ấy?
+ Đúng như Nghị quyết 57 nhận định, thách thức lớn nhất hiện nay trong lĩnh vực KHCN, ĐMST&CĐS quốc gia, là sự dàn trải nguồn lực và thiếu đồng bộ giữa trung ương với địa phương. Ngân sách địa phương thường hạn chế, dẫn đến chậm trễ triển khai. Giải pháp là đẩy mạnh phân cấp, trung ương hỗ trợ 50% kinh phí cho dự án địa phương và xây dựng hệ thống giám sát số hóa.
Có những địa phương đã tận dụng cơ chế phân cấp, phân quyền và thu hút được nguồn lực FDI vào KHCN, ĐMST&CĐS rất hiệu quả. Nhiều địa phương cũng đã thu hút được những dự án tỉ USD, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc (giữa) làm việc cùng lãnh đạo THACO và Hyundai Rotem về kế hoạch hợp tác, chuyển giao công nghệ phục vụ công nghiệp hóa ngành đường sắt Việt Nam vào ngày 9-9 vừa qua. Ảnh: VGP
. Năm 2025 cũng là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII. Chúng ta có “bộ tứ nghị quyết chiến lược”. Vậy năm cuối nhiệm kỳ này có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với việc thực hiện các nghị quyết đột phá, đặc biệt là Nghị quyết 57, thưa Phó Thủ tướng?
+ Cùng với khí thế cả dân tộc đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tôi cho rằng ngoài sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị thì niềm tin, tâm thế sẵn sàng của người dân và DN tham gia vào công cuộc “đột phá” trên mọi lĩnh vực là yếu tố quan trọng.
Trung ương đã ban hành những nghị quyết rất trúng, rất đúng, bắt nhịp được xu hướng của thời đại. Niềm tin của các DN, người dân, nhà khoa học sẽ được nâng lên khi họ an tâm sáng tạo, sẵn sàng đóng góp công của vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Khi đó, cùng với cơ chế tài chính linh hoạt, cạnh tranh Việt Nam mới thực sự bứt phá.
Tôi rất kỳ vọng với “bộ tứ nghị quyết chiến lược”, Việt Nam sẽ trở thành trung tâm đổi mới của khu vực khi KHCN, ĐMST&CĐS trở thành một trong những động lực thúc đẩy mục tiêu GDP tăng trưởng trên 10%/năm.
Chúng ta tin rằng đất nước sẽ tận dụng tốt cơ hội này để bước vào kỷ nguyên vươn mình, ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới phát triển, văn minh, sẽ trở nên thịnh vượng, hùng cường.
. Xin cảm ơn ông.
Quyết liệt lập pháp, lập quy để bịt các lỗ hổng
Trong Nghị quyết 57 cũng như hầu hết các nghị quyết gần đây, Trung ương đều yêu cầu khi triển khai các nghị quyết phải bảo đảm được rủi ro cơ bản là lãng phí hoặc tham nhũng. Không chỉ chống các hành vi lãng phí, thất thoát, tham nhũng trong quá trình triển khai các chính sách, dự ánº mà chúng ta còn quyết liệt lập pháp, lập quy nhằm bịt các lỗ hổng gây ra thất thoát, chặn các nguy cơ tham nhũng.
Chính vì vậy, thực hiện các nghị quyết của Đảng, công tác thể chế hóa là một khâu rất quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý minh bạch, chặt chẽ, bảo đảm công tác giám sát, kiểm tra và hậu kiểm có tác dụng phòng ngừa hiệu quả.
Tôi cho rằng cùng với thể chế hóa những yêu cầu nói trên thì cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng bình đẳng, an toàn, lành mạnh là điều hết sức cần thiết. Chỉ có như vậy thì những thiết chế như phân cấp, phân quyền trong phân bổ, sử dụng nguồn lực mới được thực thi hiệu quả. Và khi đó, những thách thức chúng ta vừa đề cập đến mới trở thành cơ hội để góp phần tạo đột phá, phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Phó Thủ tướng HỒ ĐỨC PHỚC