Phòng ngừa và tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em
Kết quả Điều tra quốc gia về lao động trẻ em cho thấy, tỷ lệ trẻ em Việt Nam tham gia làm việc đã giảm từ 15,5% năm 2012 xuống còn 9,1% năm 2018.
Sáng 27/5, tại Hà Nội, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp Tổ chức lao động quốc tế (ILO ) và Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Hội thảo quốc tế về các cam kết quốc tế liên quan đến phòng ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Báo cáo cho thấy, công tác phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em ở Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể. Tỷ lệ lao động trẻ em ở Việt Nam không cao và giảm dần theo từng năm.
Kết quả Điều tra quốc gia về lao động trẻ em cho thấy, tỷ lệ trẻ em tham gia làm việc đã giảm từ 15,5% năm 2012 xuống còn 9,1% năm 2018. Tỷ lệ lao động trẻ em tại Việt Nam thấp hơn 2% so với tỷ lệ trung bình của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy vậy, ở Việt Nam vẫn còn tình trạng một số trẻ em phải lao động sớm, chủ yếu trong khu vực phi chính thức.
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà cho biết, đây là một trong những hoạt động hướng tới Tháng hành động vì trẻ em Việt Nam và Ngày thế giới phòng, chống lao động trẻ em 12/6. Hiện, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu với việc triển khai thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường và nâng cao nhận thức của các bên về các cam kết quốc tế trong lĩnh vực lao động nói chung và phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Do vậy, Việt Nam luôn chủ động thực hiện hiệu quả các tiêu chuẩn lao động quốc tế, trong đó có cam kết về phòng ngừa, giảm thiểu và hướng tới xóa bỏ lao động trẻ em.
Tại hội thảo, các đại biểu đã thảo luận về các tác động và thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra đối với việc thực thi các cam kết quốc tế về phòng ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em trong khu vực, trên thế giới và tại Việt Nam. Đồng thời, chia sẻ các điển hình tốt, kinh nghiệm và định hướng trong thời gian tới của các bên, nhất là của các doanh nghiệp và các chuỗi cung ứng toàn cầu trong việc tuân thủ các nghĩa vụ và các cam kết trong phòng ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Số liệu điều tra và các nghiên cứu về lao động trẻ em gần đây cho thấy, có ba nguyên nhân chủ yếu khiến một số trẻ em ở Việt Nam phải tham gia lao động. Đó là, do hộ gia đình nghèo và gia đình dễ bị tổn thương; do nhận thức còn hạn chế của một bộ phận cha mẹ, gia đình và của chính trẻ em về giá trị của học tập để có công việc phù hợp và thu nhập bền vững; và đại dịch Covid-19 làm suy giảm sự tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của các hộ gia đình. Vì vậy, một số trẻ em phải tham gia lao động như là một phương sách để đối phó với tình trạng giảm sút thu nhập và sinh kế.
Trước thực trạng này, Giám đốc Văn phòng ILO tại Việt Nam, bà Ingrid Christensen, cũng đưa ra khuyến nghị: Để bảo đảm các hộ gia đình có nguy cơ không bị ảnh hưởng bởi tác động Covid-19 dẫn đến gia tăng lao động trẻ em, các chương trình và chính sách xóa đói giảm nghèo, các cơ hội học nghề cho trẻ đặc biệt tại các vùng nông thôn ở Việt Nam cần được ưu tiên. Đồng thời, tăng cường đầu tư vào hệ thống bảo vệ trẻ em, phát triển sinh kế và an sinh xã hội là những giải pháp chủ chốt.
Để giảm thiểu tình trạng lao động trẻ em, Việt Nam đã và đang tập trung vào một số giải pháp cơ bản. Đó là: Thực hiện phổ cập giáo dục phổ thông, chính sách xóa mù chữ và các chính sách bảo đảm công bằng về tiếp cận giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết tật, trẻ em trong các hộ gia đình nghèo và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác. Tăng cường các chính sách an sinh xã hội, chính sách giảm nghèo ở Việt Nam trong đó trẻ em là đối tượng ưu tiên. Đổi mới truyền thông, giáo dục, vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức, năng lực và trách nhiệm về phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em của chính quyền các cấp, trường học, các tổ chức xã hội, người sử dụng lao động, nhất là cha mẹ và trẻ em. Tập trung giảm thiểu các tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 làm gián đoạn việc học tập và gia tăng nguy cơ lao động trẻ em của trẻ em thuộc hộ nghèo, cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, bãi ngang và hải đảo.