Quan điểm của Bộ Tư pháp về nguyên tắc 1 quốc tịch

Việc Nhà nước ta tiếp tục duy trì nguyên tắc một quốc tịch là phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị của đất nước và tình hình chung của khu vực.

Vừa qua, Bộ Tư pháp công bố Tài liệu họp Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh năm 2023.

Theo đó, liên quan đến Luật Quốc tịch, theo Bộ Tư pháp, có ý kiến đề nghị nghiên cứu để tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hai quốc tịch trong một số trường hợp sau:

- Về quốc tịch của trẻ em: tạo điều kiện cho trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài, đã có quốc tịch nước ngoài, được quyền đăng ký khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và xác định quốc tịch Việt Nam.

- Về trở lại quốc tịch Việt Nam mà vẫn giữ quốc tịch nước ngoài: một số ý kiến cho rằng, quy định tại Nghị định 16/2020 về trường hợp đặc biệt để được trở lại quốc tịch Việt Nam và giữ quốc tịch nước ngoài là không khả thi (do một số nước không quy định về việc cấp xác nhận về quyền lợi của người đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng nếu thôi quốc tịch nước ngoài).

Đồng thời, có ý kiến đề nghị hướng dẫn cho nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài và không cần điều kiện về “thường trú” tại Việt Nam đối với thế hệ “F2” và người nước ngoài là vợ/chồng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Về vấn đề này, Bộ Tư pháp cho rằng: Nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 4 của Luật Quốc tịch là nguyên tắc chủ đạo, xuyên suốt của pháp luật quốc tịch Việt Nam từ 1945 đến nay. Nguyên tắc này được Chính phủ khẳng định lại để thống nhất cách hiểu và áp dụng tại Điều 5 của Nghị định 16/2020 “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận quốc tịch Việt Nam đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác”.

Trải qua các thời kỳ khác nhau, nguyên tắc một quốc tịch Việt Nam luôn được hiểu, áp dụng thống nhất và đồng nhất với khái niệm “công dân Việt Nam” (là người chỉ có một quốc tịch Việt Nam).

Một buổi trao quyết định nhập quốc tịch Việt Nam tại TP.HCM. Ảnh: KIM PHỤNG

Một buổi trao quyết định nhập quốc tịch Việt Nam tại TP.HCM. Ảnh: KIM PHỤNG

Theo Bộ Tư pháp, quy định tại Điều 4 Luật Quốc tịch hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế, xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia đối với dân cư, việc xác định một người nào đó có quốc tịch nước mình hay không phải do pháp luật của quốc gia đó quy định. Pháp luật Việt Nam và cơ quan nhà nước Việt Nam chỉ có thẩm quyền quy định, công nhận, xác nhận quốc tịch Việt Nam. Việc một người có quốc tịch quốc gia nào đó phải do cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó quyết định theo pháp luật của quốc gia mình. Quy định có tính nguyên tắc này không nên hiểu hay diễn giải là Việt Nam công nhận hai hay nhiều quốc tịch.

Việc Nhà nước ta tiếp tục duy trì nguyên tắc một quốc tịch là phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị của đất nước và tình hình chung của khu vực.

Còn về việc giải quyết nguyện vọng có hai quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài như đối với trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài…. Để đảm bảo quyền có quốc tịch của trẻ, pháp luật quốc tịch Việt Nam đã có các quy định giải quyết cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam; trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người nước ngoài được giải quyết có quốc tịch Việt Nam nếu có sự thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con vào thời điểm đăng ký khai sinh.

Quy định về việc thỏa thuận lựa chọn quốc tịch của trẻ em là con lai hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 4 của Luật Quốc tịch, đồng thời không ảnh hưởng đến quyền có quốc tịch của trẻ (phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Bộ Luật Dân sự, Luật trẻ em).

Còn đối với việc nhập quốc tịch Việt Nam mà không cần điều kiện thường trú tại Việt Nam. Để thể hiện mối quan hệ gắn bó của một cá nhân với nhà nước, làm phát sinh quyền – nghĩa vụ qua lại giữa nhà nước và công dân, pháp luật quốc tịch của nhiều quốc gia có quy định điều kiện về cư trú hợp pháp khi xin nhập quốc tịch (từ 3 đến 10 năm). Pháp luật nhiều nước về quốc tịch gắn chặt với pháp luật về nhập cư và nhập cảnh để có sự thống nhất về chính sách. Phù hợp với thông lệ quốc tế, Điều 19 Luật Quốc tịch quy định một trong những điều kiện để được xem xét cho nhập quốc tịch Việt Nam là “thường trú” ở Việt Nam từ 5 năm trở lên.

Tổng hợp báo cáo, Bộ Tư pháp cũng đã đề xuất chưa sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch Việt Nam tại thời điểm hiện nay.

QUỲNH LINH

Nguồn PLO: https://plo.vn/quan-diem-cua-bo-tu-phap-ve-nguyen-tac-1-quoc-tich-post719186.html