Quốc hội khóa I - mốc son đặt nền móng cho việc xây dựng, phát triển Quốc hội các khóa sau này (*)

Để phục vụ cho việc bầu cử ĐBQH khóa I, ngay từ cuối năm 1945, công tác chuẩn bị bầu cử đã được tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Mọi người nô nức phấn khởi, coi ngày bầu cử như ngày hội lớn. Nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và Bác Hồ.

Nhưng, chính trong thời gian này là thời gian bọn đế quốc điên cuồng chống phá cách mạng nước ta nhất, chúng cấu kết với bọn phản động trong nước đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Chúng kích động, sử dụng bọn Việt Quốc, Việt Cách chống đối ta, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Bên ngoài thì bọn Anh, Mỹ, Tàu, Tưởng ra sức giúp thực dân Pháp phá hoại cách mạng nước ta, máu của đồng bào đã bị đổ ở nhiều nơi trong nước.

15 ứng cử viên ĐBQH tỉnh Thanh Hóa đều trúng cử

Đúng lúc này, tỉnh Thanh Hóa nhận được chủ trương của Trung ương là bầu cử ĐBQH vào ngày 6/1/1946 và kèm theo danh sách 3 ứng cử viên của Trung ương giới thiệu ứng cử ở Thanh Hóa là Lê Trần Đức, Đặng Phúc Thông và Nguyễn Vĩnh Thụy (tức Bảo Đại). Tổng số ĐBQH của Thanh Hóa được bầu là 15 người, trong đó có 3 ứng cử viên của Trung ương giới thiệu về.

Nhận được chủ trương này, Tỉnh ủy họp bàn, nhất trí với danh sách 3 ứng cử viên của Trung ương giới thiệu, còn 12 người được nhân dân trong tỉnh giới thiệu, gồm có: tôi - Tỉnh ủy viên; đồng chí Lê Tất Đắc, đảng viên, Chủ tịch UBND lâm thời tỉnh; đồng chí Hoàng Sĩ Oánh, đảng viên; đồng chí Lưu Cộng Hòa, đảng viên; đồng chí Lê Trọng Thuần, đảng viên; đồng chí Đặng Văn Hỷ, đảng viên; đồng chí Nguyễn Đình Thực, đảng viên (7 đảng viên).

Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng kiến Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký lệnh công bố Hiến pháp mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sáng 1/1/1960. Ảnh: TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng kiến Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký lệnh công bố Hiến pháp mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sáng 1/1/1960. Ảnh: TTXVN

Ngoài Đảng có: Lê Đỗ Kỳ, trí thức; Nguyễn Xuân Kỳ, trí thức; Phạm Thúc Tiêu, dân tộc Mường; Nguyễn Văn Tỉnh (tức Tinh Hoa), tư sản người công giáo; Nguyễn Hữu Ngọc, địa chủ tư sản và 3 ứng cử viên của Trung ương giới thiệu (ngoài Đảng là 8 người). Không có người tự ứng cử, nên danh sách đề cử của tỉnh là 15 người. Tất cả các địa phương huyện, thị trong tỉnh đều cho danh sách này là danh sách hợp lệ.

Ngày 6/1/1946 ở Thanh Hóa là ngày hội lớn. Nhân dân hồ hởi phấn khởi đi bỏ phiếu rất đông. Từ thành thị đến nông thôn, tại những điểm bỏ phiếu đều được trang trí cờ, hoa, biểu ngữ, ảnh Bác Hồ rất trang trọng và đẹp mắt. Trong ngày bầu cử không xảy ra bất kỳ sự chống đối nào, tất cả đều an toàn.

Sau khi bầu cử xong, Ban kiểm phiếu công bố kết quả: 15 ứng cử viên đều trúng cử. Cuộc bầu cử thực sự tự do dân chủ, hoàn toàn không có một hình thức gò ép, áp đặt, gian lận nào. Chỉ có vận động tuyên truyền trước khi bỏ phiếu, ngoài phòng bỏ phiếu. Ngay từ sáng sớm, từng gia đình vợ chồng nhắc nhau, bà thúc giục con cháu tích cực tham gia bầu cử. Mọi người quần áo chỉnh tề, lành lặn nhất được mặc đi bầu cử hiện lòng tin vào Đảng và Bác Hồ.

Có lẽ chưa bao người dân được sống trong không khí vui vẻ như vậy. Nhìn nét mặt của mỗi người, có thể cảm nhận thấy họ thật hạnh phúc, thật tự hào. Đó là niềm tự hào chính đáng mà chỉ trước đó ít ngày họ không thể có được. Điều đó thể hiện trên lá phiếu và có được kết quả đó là nhờ sự đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ, sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân…

Cử tri tự chọn bầu, thực ra họ tin tưởng ở Bác Hồ, ở Đảng đã vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, nước bầu được 333 ĐBQH.

Sau ngày bầu cử ĐBQH ít lâu, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa tiếp nhận được giấy triệu tập Kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội vào ngày 2/3/1946. Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa họp để chuẩn bị. Đoàn bầu đồng chí Lê Tất Đắc làm Trưởng đoàn. Đoàn có bàn về việc đề nghị của Đảng mở rộng Quốc hội thêm 70 ghế, cho Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội 20 ghế và Việt Nam quốc dân đảng 50 ghế.

Để bảo đảm ổn định chính trị và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, Quốc hội hoàn toàn nhất trí với Trung ương. Các đại biểu ngoài Đảng như Phạm Thúc Tiêu, Lê Đỗ Kỳ, Tinh Hoa, Nguyễn Hữu Ngọc tỏ ra rất hồ hởi, phấn khởi.

Một nhiệm kỳ Quốc hội đặc biệt: Thông qua 2 bản Hiến pháp

Quốc hội họp kỳ thứ nhất, đồng chí Lê Tất Đắc, Trưởng đoàn, dẫn đầu Đoàn đi họp. Còn tôi là Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, mọi công việc của chính quyền lúc này thật bề bộn, tình hình chưa thực sự ổn định, trong lúc đó quân đội Tưởng đang gây rối, chống phá nên không đi dự Kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội được. Thực hiện chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, tháng 5/1946 quân đội Tưởng đã phải rút khỏi Thanh Hóa về nước.

Tuy không được tham gia kỳ họp này, nhưng tôi biết tại Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội đã nhất trí mở rộng thêm 70 ghế. Như vậy, tổng số ĐBQH khóa I có 403 đại biểu, trong đó có 333 đại biểu do nhân dân bầu ra trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 và 70 đại biểu được mở rộng thêm không qua bầu cử, gồm: Việt Nam quốc dân đảng 50 đại biểu, Việt Nam cách mạng đồng minh hội 20 đại biểu. Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa lúc đó có 15 đại biểu.

Kỳ họp thứ Hai của Quốc hội khóa I được tiến hành vào cuối tháng 10 và đầu tháng 11/1946. Lúc này, tình hình trong nước nói chung rất phức tạp, bọn đế quốc tăng cường lấn chiếm, chống phá ta ở nhiều vùng trong nước. Trong khi đó, tình hình ở Thanh Hóa lại tương đối ổn định, quân đội Tưởng đã rút khỏi Thanh Hóa; bọn Việt Quốc, Việt Cách phản động đã chạy theo quân Tưởng. Ta đã nắm vững miền núi, vùng Công giáo Nga Sơn, tổ chức Đảng đã phát triển vững mạnh ở vùng Tam Tổng.

Nhưng, thực dân Pháp ngày càng ngang nhiên trắng trợn tấn công lấn chiếm không phải chỉ ở Nam Bộ, Trung Bộ mà ngay cả ở Hải Phòng, Hà Nội - với âm mưu phá hoại cách mạng và xâm chiếm nước ta một lần nữa.

Trong Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội đã thông qua một số luật, đặc biệt là thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày cuối của kỳ họp, Bác Hồ phát biểu ý kiến nêu rõ: thực dân Pháp ngày càng ngang ngược lấn chiếm, tấn công ta, quyết tiêu diệt Tổ quốc ta. Bác Hồ kêu gọi toàn dân tộc ta quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đến cùng: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Toàn thể hội nghị nhiệt liệt hoan nghênh, biểu lộ quyết tâm thực hiện chủ trương của Đảng và Bác Hồ.

Các đại biểu đều ý thức được những ngày tháng gian khổ của chiến tranh đang đến gần và đều biểu lộ quyết tâm rất cao, chí khí kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến. Lúc đó, tôi được Tỉnh ủy chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Hà Trung, phòng tuyến Tam Điệp địa đầu phía Bắc tỉnh Thanh Hóa từ đầu tháng 12/1946 đến trước Toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946, là 22 ngày.

Từ đó, dân tộc ta lao vào cuộc kháng chiến trường kỳ, các ĐBQH Thanh Hóa mỗi người một việc, 15 đại biểu ở 15 vị trí khác nhau, nhưng cùng chung một mục đích là phục vụ kháng chiến hoặc trực tiếp tham gia chiến đấu. Cũng từ đó, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa và cả Quốc hội khóa I cũng không có cuộc họp nào, mà phải gián đoạn một thời gian dài; cho đến tháng 12/1953, sau 8 năm mới có Kỳ họp thứ Ba ở chiến khu Việt Bắc, lúc đó sức ta đã mạnh, thắng lợi đã cận kề. Chỉ nửa năm sau (1954) cuộc kháng chiến trường kỳ của ta đã thắng lợi vẻ vang, thực dân Pháp đã phải công nhận nền độc lập của Tổ quốc ta.

Từ đó, Quốc hội định kỳ tổ chức các kỳ họp cho đến Kỳ họp thứ Mười hai, tháng 4/1960 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa I. Trong 14 năm hoạt động, Quốc hội khóa I đã làm tròn trách nhiệm mà nhân dân giao phó, đánh dấu một chặng đường phát triển của Quốc hội nước ta, để lại trong lòng nhân dân ta những ấn tượng tốt đẹp và là niềm tự hào của những ai được vinh dự tham gia Quốc hội khóa I.

Đối với tôi, có lẽ điều nhớ mãi, đó là Quốc hội khóa I đã làm được những việc mà mãi mãi đi vào lịch sử hoạt động của Quốc hội nói riêng và lịch sử phát triển của dân tộc ta nói chung, đó là: đã thông qua được 2 bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 thông qua ngày 9/11/1946, Hiến pháp 1959 thông qua ngày 31/12/1959, trong đó có việc thông qua những quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô và một số đạo luật khác. Có lẽ về sau này không có khóa Quốc hội nào trong một nhiệm kỳ lại thông qua 2 bản Hiến pháp như Quốc hội khóa I.

Quốc hội khóa I đã đi vào lịch sử của dân tộc, của các khóa Quốc hội như một mốc son đặt nền móng cho việc xây dựng và phát triển Quốc hội các khóa sau này. Quốc hội khóa I đã để lại những văn bản pháp lý có ý nghĩa về việc lập hiến và lập pháp sau này. Do đó, mỗi kỳ họp Quốc hội khóa I đều có ý nghĩa đặc biệt. Nhưng, Kỳ họp thứ Năm là những kỷ niệm đẹp, tôi không thể nào quên. Kỳ họp này được tiến hành từ ngày 15 - 20/9/1955 với nội dung bàn đến vấn đề quy định rõ một vài chi tiết về Quốc kỳ, vấn đề sửa lời của bài Quốc ca và mẫu Quốc huy. Đó là những hồi ức khó quên của 14 năm là ĐBQH khóa I.

Hồi tưởng lại tôi không thể nào quên không khí của kỳ họp, đặc biệt là buổi thảo luận về mẫu Quốc huy. Mẫu Quốc huy do Chính phủ trình ra Quốc hội được Quốc hội thảo luận hết sức sôi nổi, đa số nhất trí với mẫu Quốc huy do Chính phủ trình. Tuy nhiên, cũng còn ý kiến của một số đại biểu muốn đưa vào nội dung Quốc huy hình ảnh của các di tích lịch sử và hình ảnh tiêu biểu, như Chùa Một Cột, Tháp Rùa, Cột Cờ, Đền Hùng Vương, Núi rừng Việt Bắc, Đồng Tháp Mười, những thắng cảnh khác, như dải Trường Sơn, Biển Đông, hay như cây dừa, cây tre, thậm chí đưa cả hình ảnh con trâu. Tất cả các ý kiến đều được trân trọng thảo luận, phân tích tỉ mỉ. Song, đa số ý kiến cho rằng, những vấn đề nêu trên vừa khó thể hiện, vừa không thể đại diện cho dân tộc Việt Nam. Cuối cùng, Quốc hội nhất trí thông qua mẫu Quốc huy như hiện nay.

Để có được Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và Thủ đô Hà Nội như ngày hôm nay là cả một quá trình đấu tranh kiên cường anh dũng của dân tộc ta. Ngay trong Quốc hội, khi thảo luận để đi đến thống nhất cũng là quá trình đấu tranh. Lúc đó các biểu tượng nói trên tuy chưa chính thức, nhưng nó đã thấm biết bao máu và nước mắt của đồng bào ta. Bao nhiêu người đã ngã xuống để giữ nền độc lập, giữ lá cờ đỏ sao vàng.

Ngày nay, mỗi khi nhìn thấy lá Quốc kỳ bay cao, bay xa từ các công sở, nhà máy, xí nghiệp, trường học, cơ quan đặc biệt là trên trường quốc tế lòng tôi lại xúc động không cùng, lại càng tăng thêm niềm tự hào dân tộc, tự hào là người công dân Việt Nam, người ĐBQH của khóa Quốc hội đầu tiên.

(*) Trích đăng theo cuốn “Hồi ký Đại biểu Quốc hội khóa I” của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2000

(*) Tít chính và tít xen do Báo Đại biểu Nhân dân đặt

Nguyễn Văn Huệ - Đại biểu Quốc hội khóa I, tỉnh Thanh Hóa

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/quoc-hoi-khoa-i-moc-son-dat-nen-mong-cho-viec-xay-dung-phat-trien-quoc-hoi-cac-khoa-sau-nay-10374953.html