Quy định quản lý nguồn thu từ ngành dầu khí của Brazil
Văn bản luật quy định cách thức quản lý nguồn thu từ khai thác tất cả các loại hình tài nguyên thiên nhiên là Luật 7990 được Chính phủ Brazil ban hành năm 1989.
Luật này quy định chỉ chiết khấu một phần khá nhỏ (5%) giá trị khai thác hydrocarbon và khoáng chất cho các thành phố và bang của Brazil tham gia khai thác. Nhờ chính sách tự do hóa đối với ngành khai thác dầu mỏ diễn ra vào năm 1997, văn bản luật mới (số 9478) cho phép nhiều bên tham gia vào ngành công nghiệp này.
Luật này quy định bổ sung thêm 5% thuế tài nguyên ở mọi điểm mỏ khai thác và thuế phụ thu đặc biệt đối với các mỏ có sản lượng cao. Theo đó, tỷ lệ có thể lên tới 10 - 40% nguồn thu ròng, tùy thuộc vào độ sâu của giếng và lượng dầu khai thác được.
Do toàn bộ khoản phân bổ từ thuế tài nguyên được dành cho các chính quyền địa phương và các dự án, nguồn thu chính của chính quyền trung ương thực chất được lấy từ các loại thuế doanh nghiệp thường xuyên và cổ tức tại công ty dầu khí quốc doanh Petrobras.
Petrobras chiếm 95% lượng khai thác hydrocarbon ở Brazil. Các loại thuế thường xuyên đối với công ty thuộc sở hữu nhà nước này bao gồm:
- Đối với Chính quyền trung ương: thuế thu nhập doanh nghiệp (25%), phí đóng góp xã hội trên lợi nhuận (9%), CIDE (một loại thuế đánh vào hoạt động bán lẻ và nhập khẩu các sản phẩm xăng dầu), PASEP (tham gia an sinh xã hội), cổ tức từ tỷ lệ cổ phần của Chính phủ chiếm 32% trong công ty Petrobras.
- Đối với Chính quyền các bang: ICMS - loại thuế tương tự như thuế giá trị gia tăng (tỷ lệ giữa các bang khác nhau).
Hồi năm 2007, thuế tài nguyên và thuế phụ thu đặc biệt do Petrobras chi trả lên tới 14.835 triệu Real (R$). Thuế thu nhập, Thuế đóng góp xã hội và VAT cho bang tổng cộng là 28.793 triệu R$. Tuy nhiên, do công ty này cũng là công ty đóng vai trò chính trong quá trình sản xuất và bán lẻ cuối nguồn nên không thể biết chính xác công ty này đã phải chi trả bao nhiêu cho các khoản thuế thường xuyên chỉ dành cho hoạt động khai thác.
Trên thực tế, những con số này cho thấy tầm quan trọng của việc đánh thuế thường xuyên vào tổng thu nhập từ khai thác hydrocarbon.