Quy định rõ thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp
Thảo luận tại phiên họp, đa số đại biểu Quốc hội tán thành sự cần thiết ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp, song đề nghị cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu để quy định cụ thể hơn về thẩm quyền ban bố, các trường hợp áp dụng tình trạng khẩn cấp, để bảo đảm áp dụng thống nhất, khả thi.
Sáng 26/6, tiếp tục chương trình , Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về Luật Tình trạng khẩn cấp
Cân nhắc bổ sung quy định Thủ tướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được áp dụng một số biện pháp cần thiết
Phát biểu góp ý vào dự thảo luật, đại biểu Tô Văn Tám (Đoàn Kon Tum) tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất cho hoạt động chỉ đạo điều hành và bảo đảm quyền con người trong các tình huống đặc biệt, thể chế hóa quan điểm của Đảng và phù hợp với thực tiễn.

Đại biểu Tô Văn Tám (Đoàn Kon Tum) phát biểu tại hội trường. (Ảnh: DUY LINH)
Về thẩm quyền ban bố công bố , đại biểu cho biết theo quy định tại điều 9 dự thảo luật, thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội, thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp là của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước căn cứ vào quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp của Ủy ban thường vụ Quốc hội để công bố tình trạng khẩn cấp.
Đại biểu nêu rõ: Đây là hai hành vi khác nhau. Ban bố tình trạng khẩn cấp là quyết định của cơ quan có thẩm quyền, ở đây là Ủy ban Thường vụ Quốc hội; còn công bố tình trạng khẩn cấp là việc thông báo công khai cho người dân và toàn xã hội về quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp để cơ quan, tổ chức và người dân thi hành.
Ở khoản 1 và khoản 4 của điều này quy định, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp. Như vậy, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì cũng không thể quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp.
Trên cơ sở đó, đại biểu đề nghị chỉnh lý dự thảo luật theo hướng, trong tình trạng Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì trao quyền cho Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp và công bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ là phù hợp.

Đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Đắk Nông). (Ảnh: DUY LINH)
Theo đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Đắk Nông): Dự thảo luật đã tập trung quy định về tình trạng khẩn cấp và các biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, thực tiễn ứng phó với đại dịch Covid-19 vừa qua cho thấy có những trường hợp để bảo đảm ứng phó với các tình huống nguy hiểm đe dọa đến sức khỏe tính mạng của người dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội cần thực hiện những biện pháp như trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp.
Mặt khác, qua rà soát cho thấy, Luật An ninh quốc gia cũng có những quy định về việc áp dụng một số biện pháp cần thiết khi có nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp.
Đại biểu chỉ rõ: Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2025 cũng như quy định Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp khác theo quy định của pháp luật hiện hành trong một số trường hợp cần thiết.
Do đó, đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung quy định về việc cho phép Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được áp dụng một số biện pháp cần thiết được quy định trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp, để ứng phó kịp thời những tình huống nguy hiểm cấp thiết, hạn chế khả năng xảy ra tình huống phải ban bố tình trạng khẩn cấp, nhất là hiện nay chúng ta đang thực hiện chính quyền hai cấp.
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong các tình huống đặc biệt
Tại khoản 5 Điều 5 dự thảo luật quy định về các hành vi bị nghiêm cấm: “không kịp thời hoàn trả hoặc không bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng tài sản gây ra theo quy định của các tổ chức cho các tổ chức, cá nhân bị trưng dụng tài sản”.
Đại biểu Tô Văn Tám phân tích, theo quy định này thấy rằng khi trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường về trách nhiệm dân sự và bồi thường cho cá nhân, tổ chức đó. Tuy nhiên, ở khoản 7 Điều 3 dự thảo luật, về nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khẩn cấp lại quy định như sau: "Việc quyết định các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả tình trạng khẩn cấp mà gây thiệt hại thì không bị truy cứu trách nhiệm, nếu các quyết định đó hoàn toàn không vì vụ lợi”.
Theo đại biểu, cần phải quy định rõ trách nhiệm khi trưng dụng tài sản. Bởi vì, khi quyết định các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả thì sẽ có việc quyết định trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức. Và nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường như quy định ở khoản 5 Điều 5 bồi thường về trách nhiệm dân sự. Song, nếu đối chiếu theo khoản 7 Điều 3 thì lại không bị truy cứu trách nhiệm được hiểu là bao gồm cả trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính.
Do vậy, đại biểu cho rằng nên quy định theo hướng là loại trừ trách nhiệm dân sự ở khoản 7 Điều 3, hoặc quy định không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính.
“Nếu quy định chung chung là truy cứu trách nhiệm thì có thể hiểu bao gồm cả trách nhiệm dân sự và quy định như vậy là chưa phù hợp với khoản 5 Điều 3 dự thảo luật này”, đại biểu nói.

Đại biểu Nguyễn Tạo (Đoàn Lâm Đồng). (Ảnh: DUY LINH)
Chung quan điểm, đại biểu Nguyễn Tạo (Đoàn Lâm Đồng) đặt vấn đề, trong những tình huống phải trưng mua tài sản xử lý như thế nào thì trong dự thảo luật này chưa đề cập đến. Do đó, đại biểu đề nghị ban soạn thảo nên thiết kế lại khoản 5 Điều 5 theo hướng không bảo đảm nghĩa vụ về tài sản của tổ chức, cá nhân bị trưng dụng, trưng mua.
Về quy định thành lập đội tuần tra đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn Đồng Tháp) nhận định, việc quy định thành lập đội này là hết sức cần thiết để bảo đảm tình trạng khẩn cấp trong trường hợp nhiều vấn đề phát sinh xảy ra. Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn khi dự thảo luật quy định đội tuần tra đặc biệt có quyền khám xét phương tiện nhà ở và bắt khẩn cấp những cái đối tượng mà nghi ngờ là những đối tượng “bất hảo”.
Do đó, đại biểu đề nghị nên quy định cụ thể, chi tiết để bảo đảm quyền của công dân là bất khả xâm phạm, tránh tình trạng lợi dụng tình huống bắt khẩn cấp.
“Cần phải có lực lượng chính quy của quân đội hoặc công an phối hợp lực lượng dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ này”, đại biểu đề xuất.