Quy hoạch, quản lý và sử dụng bền vững không gian biển trong bối cảnh mới
Thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh và giàu từ biển, năm 2024, Quốc hội Việt Nam đã phê duyệt quy hoạch không gian biển (QHKGB) quốc gia. Đây là quy hoạch quốc gia không gian biển đầu tiên, mang tính khung tổng thể, tích hợp đa ngành, động và mở, cụ thể hóa Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện, QHKGB quốc gia đã bộc lộ những vướng mắc và khoảng trống cần có giải pháp cải thiện, nhất là trong bối cảnh sáp nhập đơn vị hành chính, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

QHKGB có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ để khai thác hợp lý tiềm năng biển, đảo, mà còn để đảm bảo an ninh, chủ quyền quốc gia. Ảnh: Thu Hằng
Thiếu cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng
Năm 2024, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 139/2024/QH15 ngày 28/6/2024 về việc phê duyệt QHKGB quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Quy hoạch đặt mục tiêu phân bổ, sắp xếp hợp lý không gian biển cho các ngành theo hướng bền vững, hài hòa lợi ích và giảm mâu thuẫn, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh và giàu từ biển. Nghị quyết đề ra các quan điểm, mục tiêu, định hướng bố trí không gian, phân vùng sử dụng cho từng khu vực biển, cùng với các giải pháp và nguồn lực thực hiện.
Mặc dù đã có quy hoạch khung và các giải pháp định hướng, quá trình triển khai QHKGB quốc gia dự kiến sẽ gặp nhiều thách thức do những hạn chế tồn tại lâu nay trong công tác quản lý biển. Hơn nữa, bối cảnh biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và chuyển đổi năng lượng, cũng như việc thực hiện Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh hiện nay đang đặt ra các yêu cầu mới đối với công tác QHKGB quốc gia. Khi thực hiện sáp nhập, các đơn vị hành chính cấp tỉnh giảm từ 63 xuống 34 tỉnh, thành. Sau sắp xếp, 21/34 địa phương (chiếm 62%) có biển, tăng mạnh so với tỷ lệ 28/63 (44%) trước kia. Nhiều tỉnh lần đầu vươn ra biển sau hợp nhất, chẳng hạn Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam sẽ trở thành địa phương ven biển với nguồn tài nguyên biển mới. Điều này mở ra cơ hội phát triển kinh tế biển cho các địa phương này, nhưng cũng đặt ra thách thức về năng lực quản lý và phối hợp liên vùng trong triển khai QHKGB.
Thạc sĩ Phạm Thùy Linh, Học viện Chính trị khu vực II cho rằng, một trong những thách thức lớn nhất mà QHKGB quốc gia hướng tới giải quyết nhưng vẫn còn phức tạp là sự chồng lấn chức năng sử dụng không gian biển và nguy cơ xung đột lợi ích. Thực tế, không gian biển Việt Nam hiện có sự tham gia đồng thời của nhiều ngành (hàng hải, cảng biển, thủy sản, dầu khí, điện gió, du lịch, quân sự, bảo tồn...), dễ dẫn tới xung đột về không gian và tài nguyên. Một ví dụ rõ nét về xung đột lợi ích không gian biển là sự chồng lấn giữa các dự án điện gió ven bờ với ngư trường truyền thống. Tại Bạc Liêu-địa phương tiên phong triển khai điện gió gần bờ, gần như toàn bộ 56km đường bờ đã được quy hoạch cho các dự án năng lượng, khiến diện tích ngư trường bị thu hẹp nghiêm trọng. Hệ quả là thời gian ra khơi và thu nhập của ngư dân giảm mạnh. Trụ điện gió có nguy cơ làm thay đổi dòng chảy, ảnh hưởng đến nơi sinh sản và sự phục hồi của nguồn lợi thủy sản...
Bất cập khác trong quản lý biển Việt Nam là thiếu cơ chế phối hợp liên ngành và liên vùng trong quản lý biển dẫn tới các vấn đề liên ngành chưa được giải quyết hiệu quả. Trong khi đó, Việt Nam cũng đang có những hạn chế về dữ liệu và bản đồ không gian; chưa gắn kết đầy đủ yếu tố biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học.
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Phạm Hoàng Hải, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội Địa lý Việt Nam chỉ ra rằng, một trong những tồn tại của QHKGB Việt Nam là tiếng nói của người dân ven biển chưa được lắng nghe đầy đủ trong quá trình quy hoạch. Bên cạnh đó, năng lực và nguồn nhân lực chuyên môn còn thiếu, đặc biệt trong các lĩnh vực thông tin địa lý (GIS) và phân tích đa ngành.
Cần xây dựng Bộ dữ liệu quốc gia về biển
Việc triển khai QHKGB quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là một yêu cầu cấp thiết nhằm hiện thực hóa Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Trong bối cảnh Quốc hội ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, việc tổ chức lại không gian quản lý và điều hành đặt ra yêu cầu mới về tính tích hợp, điều phối và liên kết vùng biển-vùng đất liền.

Để quản lý không gian biển hiệu quả, việc khai thác tiềm năng kinh tế cần gắn kết với bảo tồn tự nhiên và phát huy di sản văn hóa bản địa. Trong ảnh: Người dân thành phố Huế tham gia đua thuyền trong lễ hội truyền thống tại vùng biển Thuận An. Ảnh: Thu Hằng
Để quản lý và khai thác bền vững không gian biển, cần khắc phục những hạn chế và bất cập hiện hữu. Trước hết, cần hoàn thiện thể chế, chính sách và quy hoạch tạo khung pháp lý định hướng cho toàn bộ quá trình triển khai QHKGB quốc gia. Cụ thể, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và đồng bộ hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến QHKGB, đảm bảo tính thống nhất giữa quy hoạch ngành, quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch vùng biển cấp tỉnh. Xây dựng Bộ tiêu chí phân định ưu tiên trong vùng chồng lấn không gian biển; ban hành quy chế điều phối giữa các ngành trong sử dụng không gian biển.
Thạc sĩ Phạm Thùy Linh cho rằng, việc tổ chức lại cấp tỉnh cần đi đôi với việc điều chỉnh ranh giới quản lý vùng biển tương ứng, tránh phân mảnh và trùng lặp thẩm quyền giữa các địa phương mới hình thành. Đồng thời, cần tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong điều tra cơ bản tài nguyên - môi trường biển. Bên cạnh đó, cần huy động các nguồn vốn để khai thác, quản lý không gian biển. Thiết lập hệ thống quan trắc, giám sát không gian biển toàn quốc sử dụng nền tảng dữ liệu lớn (big data) và công nghệ chuỗi khối (blockchain) để đảm bảo tính minh bạch, truy vết và kiểm chứng thông tin. Cùng với đó, cần xây dựng Bộ dữ liệu quốc gia về biển, tích hợp từ trung ương đến địa phương, được chuẩn hóa để các ngành có thể khai thác dùng chung.
Việt Nam có hơn 3.260km bờ biển và hàng nghìn đảo ven bờ. Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Phạm Hoàng Hải nhấn mạnh, việc xây dựng QHKGB trở nên quan trọng không chỉ để khai thác hợp lý tiềm năng biển, đảo, mà còn để đảm bảo an ninh, chủ quyền quốc gia và sinh kế của hàng triệu cư dân ven biển.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Phạm Hoàng Hải, để triển khai QHKGB thành công ở Việt Nam, các cơ quan hoạch địch chính sách cần hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường ứng dụng GIS, mở rộng nghiên cứu địa lý nhân văn và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh các căn cứ pháp lý cho QHKGB theo hướng quản lý tập trung, thống nhất nhưng có sự phân cấp (quốc gia, vùng và địa phương), kèm theo là phân định trách nhiệm quản lý và cấp phép. Hoàn thiện và điều chỉnh QHKGB theo mô hình phân cấp: cấp vùng trên 5 vùng biển lớn; QHKGB ở các tỉnh và thành phố ven biển.
Ưu tiên xây dựng quy hoạch hệ thống bảo tồn tự nhiên, đa dạng sinh học và di sản văn hóa trong kỳ quy hoạch. Thực hiện các giải pháp công nghệ bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn và hồ nước mặn. Đẩy mạnh điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học theo hướng điều tra tổng hợp các vùng biển để phục vụ xây dựng QHKGB. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và quản lý điện tử phục vụ QHKGB để tạo ra khả năng tiếp cận thông tin đầy đủ, khách quan và minh bạch phục vụ quản lý, khai thác.












