'Săn cá' trên Lục Đầu Giang
Khi những tia nắng cuối thu nhạt dần, nhường chỗ cho những cơn gió mùa Đông Bắc se sắt, nước lụt trên các cánh đồng trong đê rút cạn ra sông, cũng là lúc người dân thôn Bến, xã Đồng Việt (Bắc Ninh) lại bắt đầu vào mùa “săn cá” trên khúc Lục Đầu Giang. Lưu vực sông nơi đây rộng, phù sa bồi đắp nhiều, cộng với dải ghềnh chạy dài nên nguồn thủy sinh rất dồi dào, là nguồn thu nhập chính cho nhiều ngư dân một đời gắn bó với dòng sông.
Thực hiện: Đỗ Thành Nam

Chiều muộn trung tuần tháng Chín âm lịch, chúng tôi xuôi theo tỉnh lộ 284 về thôn Bến, xã Đồng Việt. Khúc sông Lục Đầu Giang uốn mình như dải lụa khổng lồ, ánh hoàng hôn dát vàng lên mặt nước gợn sóng. Tại bến đò Cổ Phao, vợ chồng ông Trần Văn Núi, thôn Bến đang lúi húi chuyển cá từ thuyền lên bờ. Mỗi con cá trắm nặng chừng 2 - 3 cân vừa được câu lên vẫn còn tươi rói, vùng vẫy trong chiếc túi cước treo bên mạn thuyền, khiến mặt nước sủi lên những đám bọt trắng xóa.
- Loại này bán bao nhiêu một cân thế bác? Tôi hỏi, tay chỉ vào mấy con cá trắm vừa được vớt lên.
- Ở chợ thì sáu chục nghìn, nhưng chú ra tận bến sông này, tôi để năm chục thôi! Người vợ đáp, nụ cười hiền tan trong gió sông.
Thời gian này, mỗi ngày, vợ ông Núi ra bến sông hai lần, buổi trưa và chiều tối để nhặt cá chồng câu được mang ra chợ bán. Do cá sông có hương vị thơm ngon hơn cá nuôi trong các ao, hồ nên bán được giá cao. Vợ ông Núi chia sẻ: “Nhiều khách quen ở phố thường gọi cho tôi để mang cá tận nhà, có lúc mang cá chưa kịp về nhà đã có người đón mua hết”.

Ông Trần Văn Núi, thôn Bến câu được con cá trắm to từ dưới sông.
Khi bóng vợ khuất dần sau hàng cây, ông Núi thong thả ngồi dựa lưng bên bến sông, ánh mắt lặng nhìn mặt nước lênh loang ánh chiều. “Hôm nay gặp đàn cá lớn, tôi giật mỏi cả tay. Tính ra cũng được gần ba chục cân cá trắm ngon”, ông bảo. Theo ông Núi, những ngư dân trên khúc Lục Đầu Giang này có nhiều cách đánh bắt cá, riêng ông và một vài người khác thì dùng cần câu. Hiện nay, đang là mùa săn cá trên sông. “Một năm có hai mùa cá: Tháng Tư, tháng Năm âm lịch là mùa cá đẻ, còn tháng Tám, tháng Chín là khi nước đồng rút, cá kéo ra sông. Vào mùa ấy, chỉ cần chăm chỉ, mỗi ngày cũng kiếm được tiền triệu”, ông Núi nói.

Ông Núi năm nay 65 tuổi, nước da sạm nắng, đôi tay rắn rỏi, ánh mắt tinh anh. Cả tuổi thơ ông gắn liền với những buổi quăng chài, bơi thuyền, thả lưới trên khúc Lục Đầu Giang. Sau này, dù từng có thời gian làm cán bộ kiểm lâm ở tận vùng Tây Bắc, khi về hưu, ông vẫn quay lại quê, tiếp tục niềm đam mê với chiếc cần câu và con nước.

Lục Đầu Giang là nơi gặp nhau của 6 con sông: Đuống, Thương, Cầu, Lục Nam, Thái Bình và Kinh Thầy. Do lưu vực sông nơi đây rộng, phù sa bồi đắp nhiều nên nguồn thủy sinh rất dồi dào. Đặc biệt, khúc sông chảy qua khu vực đền Cổ Phao thuộc thôn Bến có vực nước sâu và dải ghềnh dài vài trăm mét nên càng tập trung nhiều loại tôm cá. Khi đến mùa nước rút, dòng sông chảy qua khu vực này như bừng tỉnh, chứng kiến nhịp sống rộn ràng của bao người dân thôn Bến.
Sau khi chuyển mẻ cá cuối ngày cho vợ, ông Núi lại chèo thuyền ra giữa dòng, tiếp tục “thả hồn theo con nước”. Những chiếc thuyền nhỏ lướt nhẹ trên sóng, chao nghiêng giữa nắng chiều. Ở phía xa, vài chiếc thuyền khác đang thả lưới, đặt cần câu, tiếng người gọi nhau vang vọng trên sông hòa cùng tiếng mái chèo khua nhịp… Hai bên bờ, rặng tre và hàng cây nghiêng bóng xuống mặt nước. Trên bờ là đền Cổ Phao linh thiêng, đối diện bên kia (địa phận thành phố Hải Phòng) cũng có một ngôi đền hướng ra sông, như đôi mắt dõi theo dòng nước mênh mang. Trước sân đền Cổ Phao, những người già của thôn thong thả ngồi trên ghế đá trò chuyện râm ran; mấy đứa trẻ thì tung tăng nô đùa. Giữa khung cảnh ấy, dòng Lục Đầu Giang như mang hơi thở của làng quê xưa - yên bình, gần gũi mà mặn mòi sức sống.

Ông Trần Văn Núi chăm chú thả câu trên sông.
Thôn Bến, xưa kia gọi là Cổ Phao, nằm bên dòng sông Thương. Những năm 1970, khi lũ lụt liên miên, nhiều hộ dân chuyển nghề sang khai thác cát sỏi hoặc lên vùng gò đồi làm ruộng. Hiện nay, thôn có hơn 200 hộ, phần lớn làm nông nghiệp, song nghề chài lưới vẫn được duy trì như một nét văn hóa truyền đời.

Trên bến sông, ông Trần Văn Dốc, người cùng thôn, cũng là bạn chài lâu năm của ông Núi vừa nhấc xong mẻ lưới đóng, ghé thuyền sát bờ. Chiếc túi cước nặng trĩu, những con cá trắm nằm lớp lớp, ánh vảy lấp lóa trong nắng chiều. Vợ ông nhanh tay chuyển cá lên bờ, miệng cười tươi: “Mấy hôm nay, mỗi ngày ông nhà tôi cũng đánh được mười đến hai mươi cân cá”.
Ở tuổi 65, ông Dốc vẫn ngày ngày chèo thuyền ra sông. “Gắn bó hơn ba chục năm rồi, giờ bảo bỏ nghề cũng không đành”, ông cười hiền. Ông Dốc chậm dãi kể, trước kia ông đánh cá bằng lưới chụp. Song do tốn nhân lực, lại phải chờ nước đứng mới thả được lưới nên mấy năm nay ông chuyển sang dùng lưới đóng - một hình thức hiệu quả hơn. Mỗi tấm lưới đóng dài hơn trăm mét, cao hơn ba mét, neo hai đầu cố định là được, rất đơn giản mà hiệu quả hơn nhiều.

Ông Trần Văn Dốc thả lưới bắt được con cá trắm to.
Bằng kinh nghiệm nhiều năm làm nghề chài lưới trên sông, ông Dốc kể về “nghề xem nước” mà chỉ những cư dân sống gần dòng sông mới hiểu: “Tháng Hai, tháng Tám âm lịch có ba con nước; còn tháng khác chỉ hai. Mỗi mùa nước lại khác - đầu năm nước đứng vào buổi chiều, cuối năm nước đứng vào ban sáng. Các cụ xưa mới có câu “Tháng Tám trâu bò ra, tháng Ba trâu bò về” để đoán thủy triều đấy”.
Những người đánh bắt cá như ông đều nắm rõ khoảnh khắc này để chọn vị trí thả câu hoặc nhấc lưới. Nếu những người chuyên câu cá thì chọn điểm đặt lưỡi câu sao cho dựa vào thành ghềnh đá; còn những người đánh cá bằng lưới đóng, lưới bát quái, khi thấy nước đứng thì nhanh chóng đi lần lưới, vì nếu nước chảy, lưới sẽ rất nặng, không thể nhấc lên được.
“Để xác định xem nước sông đang chảy hay đứng thì còn cách quan sát, nếu phao của lưới dựng lên thì là nước đứng, còn phao bị nghiêng nhiều là nước vẫn đang chảy mạnh”, ông Dốc vừa nói, vừa chỉ tay về dòng sông có những chiếc phao được làm bằng can nhựa màu trắng, màu vàng nhấp nhô trên mặt nước.

Câu chuyện đang sôi nổi, bỗng giọng ông Dốc chùng xuống. Ông bảo, dòng sông nay không còn trong lành như trước. “Mỗi lần kéo lưới là lại vớt được đầy rác thải, như túi nilon, chai lọ. Có ngày tôi phải chở mấy bao rác thải đi tiêu hủy. Buồn nhất là tình trạng một số người dân ở nơi khác đến kích điện bắt cá. Một lần họ quét qua là cá lớn, cá bé chết sạch, dòng sông mất đi cả mùa sinh sôi. Chúng tôi cũng đã từng ngăn cản nhưng không thành”, ông nói, mắt dõi xa theo con nước đang chảy xuôi về hạ lưu, nơi ánh nắng cuối ngày đang nhạt dần.
Giữa những đổi thay của cuộc sống hiện đại, những người như ông Núi, ông Dốc vẫn kiên trì giữ nghề, gắn bó với dòng sông. Với họ, đó không chỉ là mưu sinh, mà còn là cách giữ lấy ký ức, giữ lại một phần hồn quê. Dòng Lục Đầu Giang vẫn ngày đêm chảy, như chứng nhân lặng lẽ cho cuộc mưu sinh của bao thế hệ và tình yêu bền bỉ của con người nơi miền sông nước.
Lục Đầu Giang là nơi gặp nhau của 6 con sông: Đuống, Thương, Cầu, Lục Nam, Thái Bình và Kinh Thầy. Có lẽ do lưu vực sông nơi đây rộng, phù sa bồi đắp nhiều nên nguồn thủy sinh rất dồi dào. Đặc biệt, khúc sông chảy qua khu vực đền Cổ Phao thuộc thôn Bến, xã Đồng Việt có vực nước sâu và dải ghềnh dài vài trăm mét nên càng tập trung nhiều loại tôm cá. Khi mùa nước rút đến, dòng sông chảy qua khu vực này như bừng tỉnh, chứng kiến nhịp sống rộn ràng của bao người dân nơi đây.
"Săn cá" trên Lục Đầu Giang
Khi những tia nắng cuối thu nhạt dần, nhường chỗ cho những cơn gió mùa Đông Bắc se sắt, nước lụt trên các cánh đồng trong đê rút cạn ra sông, cũng là lúc người dân thôn Bến, xã Đồng Việt (Bắc Ninh) lại bắt đầu vào mùa “săn cá” trên khúc Lục Đầu Giang. Có lẽ do lưu vực sông nơi đây rộng, phù sa bồi đắp nhiều, cộng với dải ghềnh chạy dài nên nguồn thủy sinh rất dồi dào, là nguồn thu nhập chính cho nhiều ngư dân một đời gắn bó với dòng sông.
Thực hiện: Đỗ Thành Nam

Chiều muộn trung tuần tháng Chín âm lịch, chúng tôi xuôi theo tỉnh lộ 284 về thôn Bến, xã Đồng Việt. Khúc sông Lục Đầu Giang uốn mình như dải lụa khổng lồ, ánh hoàng hôn dát vàng lên mặt nước gợn sóng. Tại bến đò Cổ Phao, vợ chồng ông Trần Văn Núi, thôn Bến đang lúi húi chuyển cá từ thuyền lên bờ. Mỗi con cá trắm nặng chừng 2-3 cân vừa được câu lên vẫn còn tươi rói, vùng vẫy trong chiếc túi cước treo bên mạn thuyền, khiến mặt nước sủi lên những đám bọt trắng xóa.
– Loại này bán bao nhiêu một cân thế bác? Tôi hỏi, tay chỉ vào mấy con cá trắm vừa được vớt lên.
– Ở chợ thì sáu chục nghìn, nhưng chú ra tận bến sông này, tôi để năm chục thôi! Người vợ đáp, nụ cười hiền tan trong gió sông.

Ông Trần Văn Núi, thôn Bến câu được con cá trắm to từ dưới sông.
Thời gian này, mỗi ngày, vợ ông Núi ra bến sông hai lần, buổi trưa và chiều tối để nhặt cá chồng câu được mang ra chợ bán. Do cá sông có hương vị thơm ngon hơn cá nuôi trong các ao, hồ nên bán được giá cao. Vợ ông Núi chia sẻ: “Nhiều khách quen ở phố thường gọi cho tôi để mang cá tận nhà; có lúc mang cá chưa kịp về nhà đã có người đón mua hết”.
Khi bóng vợ khuất dần sau hàng cây, ông Núi thong thả ngồi dựa lưng bên bến sông, ánh mắt lặng nhìn mặt nước lênh loang ánh chiều. “Hôm nay gặp đàn cá lớn, tôi giật mỏi cả tay. Tính ra cũng được gần ba chục cân cá trắm ngon”, ông bảo. Theo ông Núi, những ngư dân trên khúc Lục Đầu Giang này có nhiều cách đánh bắt cá, riêng ông và một vài người khác thì dùng cần câu. Hiện nay, đang là mùa săn cá trên sông. “Một năm có hai mùa cá: Tháng Tư, tháng Năm âm lịch là mùa cá đẻ, còn tháng Tám, tháng Chín là khi nước đồng rút, cá kéo ra sông. Vào mùa ấy, chỉ cần chăm chỉ, mỗi ngày cũng kiếm được tiền triệu”, ông Núi nói.
Ông Núi năm nay 65 tuổi, nước da sạm nắng, đôi tay rắn rỏi, ánh mắt tinh anh. Cả tuổi thơ ông gắn liền với những buổi quăng chài, bơi thuyền, thả lưới trên khúc Lục Đầu Giang. Sau này, dù từng có thời gian làm cán bộ kiểm lâm ở tận vùng Tây Bắc, khi về hưu, ông vẫn quay lại quê, tiếp tục niềm đam mê với chiếc cần câu và con nước.

Lục Đầu Giang là nơi gặp nhau của 6 con sông: Đuống, Thương, Cầu, Lục Nam, Thái Bình và Kinh Thầy. Có lẽ do lưu vực sông nơi đây rộng, phù sa bồi đắp nhiều nên nguồn thủy sinh rất dồi dào. Đặc biệt, khúc sông chảy qua khu vực đền Cổ Phao thuộc thôn Bến có vực nước sâu và dải ghềnh dài vài trăm mét nên càng tập trung nhiều loại tôm cá. Khi đến mùa nước rút, dòng sông chảy qua khu vực này như bừng tỉnh, chứng kiến nhịp sống rộn ràng của bao người dân thôn Bến.

Sau khi chuyển mẻ cá cuối ngày cho vợ, ông Núi lại chèo thuyền ra giữa dòng, tiếp tục “thả hồn theo con nước”. Những chiếc thuyền nhỏ lướt nhẹ trên sóng, chao nghiêng giữa nắng chiều. Ở phía xa, vài chiếc thuyền khác đang thả lưới, đặt cần câu, tiếng người gọi nhau vang vọng trên sông hòa cùng tiếng mái chèo khua nhịp… Hai bên bờ, rặng tre và hàng cây nghiêng bóng xuống mặt nước. Trên bờ là đền Cổ Phao linh thiêng, đối diện bên kia (địa phận thành phố Hải Phòng) cũng có một ngôi đền hướng ra sông, như đôi mắt dõi theo dòng nước mênh mang.
Trước sân đền Cổ Phao, những người già của thôn thong thả ngồi trên ghế đá trò chuyện râm ran; mấy đứa trẻ thì tung tăng nô đùa. Giữa khung cảnh ấy, dòng Lục Đầu Giang như mang hơi thở của làng quê xưa-yên bình, gần gũi mà mặn mòi sức sống.
Thôn Bến, xưa kia gọi là Cổ Phao, nằm bên dòng sông Thương. Những năm 1970, khi lũ lụt liên miên, nhiều hộ dân chuyển nghề sang khai thác cát sỏi hoặc lên vùng gò đồi làm ruộng. Hiện nay, thôn có hơn 200 hộ, phần lớn làm nông nghiệp, song nghề chài lưới vẫn được duy trì như một nét văn hóa truyền đời.

Trên bến sông, ông Trần Văn Dốc, người cùng thôn, cũng là bạn chài lâu năm của ông Núi vừa nhấc xong mẻ lưới đóng, ghé thuyền sát bờ. Chiếc túi cước nặng trĩu, những con cá trắm nằm lớp lớp, ánh vảy lấp lóa trong nắng chiều. Vợ ông nhanh tay chuyển cá lên bờ, miệng cười tươi: “Mấy hôm nay, mỗi ngày ông nhà tôi cũng đánh được mười đến hai mươi cân cá”.

Ông Trần Văn Dốc, thôn Bến thả lưới bắt được con cá trắm ngon.
Ở tuổi 65, ông Dốc vẫn ngày ngày chèo thuyền ra sông. “Gắn bó hơn ba chục năm rồi, giờ bảo bỏ nghề cũng không đành”, ông cười hiền. Ông Dốc chậm dãi kể, trước kia ông đánh cá bằng lưới chụp. Song do tốn nhân lực, lại phải chờ nước đứng mới thả được lưới nên mấy năm nay ông chuyển sang dùng lưới đóng - một hình thức hiệu quả hơn. Mỗi tấm lưới đóng dài hơn trăm mét, cao hơn ba mét, neo hai đầu cố định là được, rất đơn giản mà hiệu quả hơn nhiều.
Bằng kinh nghiệm nhiều năm làm nghề chài lưới trên sông, ông Dốc kể về “nghề xem nước” mà chỉ những cư dân sống gần dòng sông mới hiểu: “Tháng Hai, tháng Tám âm lịch có ba con nước; còn tháng khác chỉ hai. Mỗi mùa nước lại khác – đầu năm nước đứng vào buổi chiều, cuối năm nước đứng vào ban sáng. Các cụ xưa mới có câu “Tháng Tám trâu bò ra, tháng Ba trâu bò về” để đoán thủy triều đấy”.
Những người đánh bắt cá như ông đều nắm rõ khoảnh khắc này để chọn vị trí thả câu hoặc nhấc lưới. Nếu những người chuyên câu cá thì chọn điểm đặt lưỡi câu sao cho dựa vào thành ghềnh đá; còn những người đánh cá bằng lưới đóng, lưới bát quái, khi thấy nước đứng thì nhanh chóng đi lần lưới, vì nếu nước chảy, lưới sẽ rất nặng, không thể nhấc lên được. “Để xác định xem nước sông đang chảy hay đứng thì còn cách quan sát, nếu phao của lưới dựng lên thì là nước đứng, còn phao bị nghiêng nhiều là nước vẫn đang chảy mạnh”, ông Dốc vừa nói, vừa chỉ tay về dòng sông có những chiếc phao được làm bằng can nhựa màu trắng, màu vàng nhấp nhô trên mặt nước.

Khúc Lục Đầu Giang chảy qua khu vực đền Cổ Phao thuộc thôn Bến, xã Đồng Việt có vực nước sâu và dải ghềnh dài vài trăm mét nên càng tập trung nhiều loại tôm cá.
Câu chuyện đang sôi nổi, bỗng giọng ông Dốc chùng xuống. Ông bảo, dòng sông nay không còn trong lành như trước. “Mỗi lần kéo lưới là lại vớt được đầy rác thải, như túi nilon, chai lọ. Có ngày tôi phải chở mấy bao rác thải đi tiêu hủy. Buồn nhất là tình trạng một số người dân ở nơi khác đến kích điện bắt cá. Một lần họ quét qua là cá lớn, cá bé chết sạch, dòng sông mất đi cả mùa sinh sôi. Chúng tôi cũng đã từng ngăn cản nhưng không thành”, ông nói, mắt dõi xa theo con nước đang chảy xuôi về hạ lưu, nơi ánh nắng cuối ngày đang nhạt dần.
Giữa những đổi thay của cuộc sống hiện đại, những người như ông Núi, ông Dốc vẫn kiên trì giữ nghề, gắn bó với dòng sông. Với họ, đó không chỉ là mưu sinh, mà còn là cách giữ lấy ký ức, giữ lại một phần hồn quê. Dòng Lục Đầu Giang vẫn ngày đêm chảy, như chứng nhân lặng lẽ cho cuộc mưu sinh của bao thế hệ và tình yêu bền bỉ của con người nơi miền sông nước./.
Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/e-magazines/san-ca-tren-luc-dau-giang-postid431102.bbg











