Sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu

Lĩnh vực nông nghiệp thời gian qua chịu nhiều tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra. Để thích ứng với tình trạng trên và hạn chế thiệt hại, nhiều giải pháp khoa học, kỹ thuật đã được ngành chuyên môn khuyến cáo, áp dụng hiệu quả. Dù vậy, trước diễn biến khó lường của thời tiết, về lâu dài cần tiếp tục có sự quan tâm hơn nữa.

Chủ động thích ứng

Sản xuất nông nghiệp chịu tác động bất lợi do thời tiết cực đoan như thiên tai, dịch bệnh. Bão lũ, nắng nóng, khô hạn, rét hại, sâu bệnh, mưa đá… đã làm ảnh hưởng lớn tới năng suất, chất lượng nông, lâm sản và thiệt hại lớn cho người sản xuất. Do ảnh hưởng của thời tiết, vụ vải thiều năm 2024 trên địa bàn tỉnh giảm hơn 50% sản lượng so với năm trước; hay năm 2023 tình trạng sâu bệnh làm thiệt hại hơn 1 nghìn ha rừng trồng bạch đàn và keo lai. Trong chăn nuôi, một số dịch bệnh nguy hiểm như: Cúm gia cầm, dịch tả lợn châu Phi, lở mồm long móng, tai xanh... đã từng phát sinh, lây lan và gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Năm nay, tình trạng hạn hán, thiếu nước tưới cho sản xuất đã khiến nhiều diện tích rau màu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp tại một số địa phương bị ảnh hưởng, gia tăng các vụ cháy rừng.

 Bắc Giang đã áp dụng đồng bộ các giải pháp, trong đó chọn nông nghiệp công nghệ cao làm khâu đột phá. Ảnh: Sản xuất rau, quả trong nhà lưới của Hợp tác xã Rau sạch Yên Dũng (thành phố Bắc Giang).

Bắc Giang đã áp dụng đồng bộ các giải pháp, trong đó chọn nông nghiệp công nghệ cao làm khâu đột phá. Ảnh: Sản xuất rau, quả trong nhà lưới của Hợp tác xã Rau sạch Yên Dũng (thành phố Bắc Giang).

Đối mặt sự khắc nghiệt của thời tiết, người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã đã dần thay đổi phương pháp sản xuất từ làm theo kinh nghiệm, thuận tự nhiên sang áp dụng khoa học kỹ thuật. Tại nhiều địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nông dân áp dụng canh tác lúa thân thiện với môi trường với hàng nghìn ha lúa. Nông dân áp dụng 3 kỹ thuật cơ bản như không đốt rơm rạ, hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, quản lý nước hợp lý (tưới ướt – khô xen kẽ). Ông Lã Văn Đoàn, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh đánh giá, so với ruộng đối chứng, diện tích lúa áp dụng các kỹ thuật này có bộ rễ phát triển mạnh, cây cứng khỏe, khả năng chống lại sâu bệnh tốt, đẻ nhánh khỏe hơn, năng suất tăng từ 20-30%. Qua đó giúp giảm chi phí canh tác, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ môi trường.

Tại huyện Lạng Giang, năm 2024 đã đưa vào cấy giống lúa Dự hương 8 New, đây là giống cho năng suất cao, có khả năng sinh trưởng mạnh, chống chịu tốt bệnh bạc lá, khô vằn, đạo ôn, đồng thời có khả năng chịu hạn tốt hơn so với một số giống lúa thông thường. Theo ông Hà Văn Hoa, Trưởng thôn Đồi Giang, xã An Hà (Lạng Giang), thời tiết vụ mùa năm 2024 diễn biến hết sức phức tạp, đầu tháng 9 cơn bão Yagi đã làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Dù vậy, bằng việc người dân trong thôn đưa vào cấy thử nghiệm 2,5 ha giống lúa Dự hương 8 New nên vẫn cho năng suất 241 kg/sào (cao hơn gần 50 kg so với một số giống đối chứng). Nhận thấy những ưu điểm vượt trội, thôn tiếp tục mở rộng cấy đại trà với diện tích khoảng 40 ha.

Bắc Giang đã xây dựng được hơn 1,5 nghìn mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đạt từ 220-250 triệu đồng/ha/năm, cao hơn từ 2-2,5 lần so với sản xuất thông thường, đặc biệt là mô hình sản xuất trong nhà lưới, nhà màng, nhà lạnh công nghệ cao cho giá trị từ 700 triệu đồng - 1 tỷ đồng/ha/năm (tăng từ 7-10 lần so với sản xuất thông thường).

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường, đến nay toàn tỉnh có hơn 24 nghìn ha lúa, cây ăn quả và hoa, rau màu được áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước (tăng gần 3 nghìn ha so với năm 2023). Trong chăn nuôi, người dân đã thay đổi từ tư duy sản xuất nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung, quy mô lớn, liên kết theo chuỗi. Thay vì chăn thả ngoài trời, nhiều hộ dân, hợp tác xã đã chuyển sang hình thức nuôi nhốt giúp đàn vật nuôi được phòng, chống dịch bệnh và phát triển tốt hơn.

Ngoài ra, Bắc Giang đã xây dựng được hơn 1,5 nghìn mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đạt từ 220-250 triệu đồng/ha/năm, cao hơn từ 2-2,5 lần so với sản xuất thông thường, đặc biệt là mô hình sản xuất trong nhà lưới, nhà màng, nhà lạnh công nghệ cao cho giá trị từ 700 triệu đồng - 1 tỷ đồng/ha/năm (tăng từ 7-10 lần so với sản xuất thông thường). Tỉnh cũng dồn điền đổi thửa được trên 17 nghìn ha, chuyển đổi hơn 10 nghìn ha đất trồng lúa hiệu quả kinh tế thấp sang cây trồng khác và nuôi thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao hơn.

Áp dụng đồng bộ các giải pháp

Để thích ứng với biến đổi khí hậu, Bắc Giang đã áp dụng đồng bộ các giải pháp, trong đó chọn nông nghiệp công nghệ cao làm khâu đột phá. Việc chú trọng đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ về giống, chuyển đổi mạnh sang các cây trồng, vật nuôi có giá trị và hiệu quả kinh tế cao hơn đã góp phần quan trọng nâng giá trị sản xuất ngành trồng trọt năm 2024 lên hơn 14,3 nghìn tỷ đồng; giá trị thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác đạt 138 triệu đồng/ha (tăng 28 triệu đồng/ha so với năm 2020).

Tuy đạt được nhiều kết quả song theo ông Lê Bá Thành, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, nhận định nông nghiệp vẫn chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, diễn biến bất thường, do đó thời gian tới ngành tiếp tục đẩy mạnh thí điểm và nhân rộng các mô hình sản xuất mới làm hình mẫu cho các vùng chuyên canh, đáp ứng các yêu cầu thị trường như: Nông nghiệp tuần hoàn, sinh thái, nông nghiệp xanh, tiết kiệm tài nguyên và giảm thải; nông nghiệp hữu cơ, thông minh, công nghệ cao… Cùng đó, huy động các nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn, nhất là hạ tầng thủy lợi, đường giao thông nội đồng, hệ thống tưới nước tiết kiệm. Xây dựng, hoàn thiện quy trình canh tác hợp lý gắn với sử dụng phân bón hiệu quả, giảm thất thoát chất dinh dưỡng trên các loại đất chính trồng các cây trồng chủ lực, góp phần ổn định và nâng cao sức khỏe đất trồng trọt, giảm phát thải khí nhà kính.

Phát triển các vùng chăn nuôi theo phương thức trang trại công nghiệp, bán công nghiệp tập trung. Cơ cấu lại ngành trồng trọt theo hướng tập trung thúc đẩy phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, đặc trưng có lợi thế của từng vùng, địa phương. Kiểm soát mức độ suy thoái đất, duy trì bảo vệ độ phì đất, tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp; bảo đảm an ninh và ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước; tăng cường tạo nguồn, tích nước, điều tiết, quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn nước phục vụ nông nghiệp. Áp dụng cơ giới hóa đồng bộ từ khâu sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến theo chuỗi giá trị, trước hết đối với sản phẩm chủ lực tại các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn.

Nghiên cứu, chọn tạo, chuyển giao và ứng dụng giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu một cách hiệu quả; bảo tồn và phát triển giống bản địa, đặc hữu có giá trị kinh tế cao.

Bài, ảnh: Nguyễn Hưởng

Nguồn Bắc Giang: http://baobacgiang.vn/san-xuat-nong-nghiep-thich-ung-voi-bien-doi-khi-hau-postid417423.bbg