Sắp xếp lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tinh gọn, hiệu quả, hiện đại
Nghị quyết số 71-NQ/TW xác định: 'Giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao' và là một phần cấu thành quan trọng của 'hệ thống giáo dục mở, liên thông, học tập suốt đời'.

Sinh viên thực hành công nghệ trong chương trình liên kết doanh nghiệp tại Trường cao đẳng Cơ điện Hà Nội.
Với cách nhìn chiến lược này, giáo dục nghề nghiệp trở thành một trụ cột, đóng vai trò chủ lực trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ mới.
Thế nhưng, trụ cột ấy đang gánh quá nhiều ràng buộc. Cả nước hiện có hơn 1.163 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhưng phần lớn quy mô nhỏ, chất lượng không đồng đều, nhiều nơi chương trình đào tạo còn xa rời nhu cầu thực tế. Đó là lý do tháng 9/2025, Bộ Nội vụ ban hành Công văn số 8150/BNV-TCBC, hướng dẫn các địa phương sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hiện đại, với nguyên tắc: Mỗi tỉnh không quá ba trường dạy nghề công lập (trừ trường đã tự chủ) và hợp nhất trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên thành trường trung học nghề.
Không ít địa phương đã chủ động vào cuộc như Thành phố Hồ Chí Minh rà soát, dự kiến chỉ còn 19 trường nghề công lập, trong đó có hai trường mới được thành lập theo hướng “nâng cấp-hợp nhất” là Trường cao đẳng Du lịch-Khách sạn Saigontourist và Trường cao đẳng Nông nghiệp công nghệ cao. Đáng chú ý, toàn bộ các trường trung cấp công lập hiện nay sẽ được giải thể hoặc sáp nhập. Thành phố cũng đề xuất chuyển 41 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên thành 37 trường trung học nghề theo khu vực.
Tương tự, tỉnh Ninh Bình đã sáp nhập ba trường y tế tuyến tỉnh và tính đến phương án tích hợp một số trường trung cấp vào Trường đại học Hoa Lư, để bảo đảm không quá ba trường dạy nghề nhưng vẫn duy trì được năng lực đào tạo phù hợp nhu cầu địa phương.
Việc tinh gọn mạng lưới là đúng hướng nhưng sắp xếp để làm gì - đó mới là câu hỏi gốc rễ. Nghị quyết số 71-NQ/TW đặt mục tiêu, đến năm 2030, 80% số cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia; 20% được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á. Tỷ lệ người theo học các trình độ sau phổ thông đạt 50%. Sắp xếp, nếu chỉ dừng lại ở “gộp vào để giảm bớt”, sẽ không thể tạo ra bước nhảy thực chất. Ngược lại, nếu được xem là bước “dọn nền” cho chiến lược phân luồng - thì đây là thời cơ để tái thiết toàn diện hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo các tiêu chí mới: Hiện đại, gắn kết, linh hoạt, và liên thông.
Tư duy này từng được đặt ra từ năm 2021 trong Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 (Quyết định số 2239/QĐ-TTg), với quan điểm: Phát triển giáo dục nghề nghiệp là nhiệm vụ trọng yếu trong khai thác “thời cơ dân số vàng”, phổ cập nghề cho thanh niên và bảo đảm phân bổ ngân sách ưu tiên cho lĩnh vực này trong tổng thể ngân sách giáo dục-đào tạo.
Về mặt mô hình, Nghị quyết số 71-NQ/TW đề xuất cải cách quan trọng: Bổ sung cấp trung học nghề tương đương trung học phổ thông, cho phép học sinh học song bằng văn hóa-nghề; đồng thời thúc đẩy liên kết giữa nhà trường-doanh nghiệp-thị trường. Cùng với đó là phân cấp mạnh cho địa phương quản lý các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, để gắn trách nhiệm với quyền hạn trong việc bảo đảm chất lượng nhân lực tại chỗ.
Về nội dung, Nghị quyết yêu cầu “đổi mới chương trình, ứng dụng công nghệ số, đẩy mạnh đào tạo kỹ năng nghề tại doanh nghiệp”, đặc biệt trong các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao. Các chính sách tài chính cũng được thiết kế lại: Ưu tiên ngân sách cho các ngành kỹ thuật, hỗ trợ đào tạo cho đồng bào dân tộc thiểu số, khuyến khích doanh nghiệp tham gia thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp, lập quỹ đào tạo nhân lực riêng để đào tạo lại và đào tạo nâng cao cho lao động hiện có.
Chuyển đổi số cũng là mệnh lệnh đổi mới của giáo dục nghề nghiệp. Các cơ sở nghề cần xây dựng nền tảng đào tạo số, tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), nâng chuẩn năng lực số cho giáo viên và người học - để không bị bỏ lại phía sau trong quá trình số hóa toàn diện của nền kinh tế.
Những định hướng đó cho thấy, chỉ khi giáo dục nghề nghiệp trở thành “đích đến” hấp dẫn với người học, kết nối chặt chẽ với thị trường, được bảo đảm nguồn lực và được vận hành như một hệ sinh thái mở thì chiến lược phân luồng quốc gia mới có thể thành công. Sắp xếp trường nghề không chỉ là chuyện số lượng. Đó là bài kiểm tra tư duy chiến lược và năng lực cải cách của từng địa phương.











