'Siêu dự án' đường sắt, doanh nghiệp Việt sẵn sàng nhập cuộc?
Đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng mở ra sân chơi mới cho cho doanh nghiệp phát triển công nghiệp đường sắt, tiến tới làm chủ công nghệ đường sắt.
Quyết tâm với “cơ hội” trước mắt
Sáng nay 26/2, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc làm việc với Bộ Giao thông vận tải cùng một số bộ, ngành và 9 tỉnh, thành phố về Kế hoạch tổ chức triển khai Nghị quyết số 187/2025/QH15 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng với tổng chiều dài gần 400 km, đi qua 9 tỉnh, thành phố, tổng mức đầu tư hơn 8 tỷ USD.
Cụ thể, tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng có điểm đầu tại vị trí nối ray qua biên giới (tỉnh Lào Cai) và điểm cuối tại ga Lạch Huyện (thành phố Hải Phòng). Tuyến chính có chiều dài khoảng 390,9 km, cùng với 27,9 km tuyến nhánh, đi qua địa phận 9 tỉnh, thành phố gồm: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng.
Phó Thủ tướng nêu rõ, với mục tiêu hoàn thành vào năm 2030, việc triển khai dự án đầu tư xây dựng đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng hết sức khẩn trương, song phải đảm bảo khoa học, nắm chắc tiến độ và chất lượng công trình.
“Quá trình tổ chức triển khai đầu tư xây dựng tuyến đường sắt này sẽ là kinh nghiệm quý để thực hiện các dự án hạ tầng đường sắt quan trọng của đất nước như tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến đường sắt đô thị của Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh...”, Phó Thủ tướng nói.
Trước sự quyết tâm của Chính phủ, trên thực tế, thời gian qua, các doanh nghiệp Việt đã khẳng định năng lực thi công qua hàng loạt dự án trọng điểm như cao tốc Bắc - Nam, các tuyến metro, đường vành đai, sân bay với quy mô lớn và yêu cầu kỹ thuật phức tạp. Chỉ trong hai năm gần đây, cả nước đã hoàn thành và đưa vào khai thác 11 dự án cao tốc, nâng tổng chiều dài đường cao tốc lên 2.021 km.
Dự kiến trong năm 2025, tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông được nối thông, cùng một số dự án đường bộ cao tốc khác được đưa vào sử dụng, hoàn thành mục tiêu đưa vào khai thác 3.000km đường bộ cao tốc.
Chuyên gia đánh giá, nếu bám sát được mục tiêu khởi công vào cuối năm 2025 như Quốc hội đề ra, dự án Đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng trị giá 8,369 tỷ USD sẽ tiếp tục là cú hích lớn cho ngành công nghiệp đường sắt Việt Nam.
Theo PGS.TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam nhìn nhận, cùng với những thành quả trước đó, dự án đường sắt mới sẽ tạo ra một "thao trường" thực tiễn để trau dồi kỹ năng, nâng cao năng lực quản lý, làm chủ công nghệ thi công hạ tầng giao thông hiện đại. Dự án đường sắt sẽ đưa đến một cơ hội rất lớn cho nền kinh tế của Việt Nam.
Từng bước làm chủ công nghệ
Ngành công nghiệp đường sắt Việt Nam có thể tự hào khi đã sản xuất nội địa hóa được toa xe. Khi đề án đường sắt tốc độ cao được thực hiện, công nghệ được chuyển giao thích hợp, đây là thời điểm và cơ hội thích hợp để Việt Nam phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ cho đường sắt tốc độ cao. Dự án được đầu tư sẽ là cơ hội để người Việt Nam tiếp cận và tiến tới làm chủ công nghệ hiện đại và tiến tới làm chủ công nghệ đường sắt tốc độ cao.
Hiện cả nước có 33 cơ sở, xí nghiệp sản xuất lắp ráp, bảo dưỡng sửa chữa. Từ đây, các đội tàu được đóng mới trong nước, với tỷ lệ nội địa hóa trên 80%, đang được khai thác dọc tuyến Bắc - Nam.
Gần 10 năm qua, ngành đường sắt đã không phải nhập khẩu các đầu máy, toa xe từ nước ngoài về để khai thác và cũng đang xây dựng đề án, phấn đấu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa từ 30% trở lên đối với các phương tiện, linh phụ kiện của đường sắt tốc độ cao.
Chia sẻ về nội dung này, ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội (HANSIBA) cho biết, cơ hội cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ là rất lớn. Đặc biệt khi xét đến việc sản xuất và cung cấp các vật liệu quan trọng như bê tông, thép, các cấu kiện hạ tầng như cầu, cống, đường hầm… bởi đây là những yếu tố không thể thiếu để hoàn thành dự án đường sắt cao tốc
Bên cạnh đó, một trong những cơ hội lớn khác là việc chuyển giao và làm chủ công nghệ trong ngành đường sắt. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ sẽ có cơ hội tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ các đối tác quốc tế, đặc biệt là các quốc gia có kinh nghiệm phát triển đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc... HANSIBA và các thành viên của hiệp hội đã và đang kết nối với các đối tác quốc tế để hợp tác trong việc sản xuất, chuyển giao công nghệ và cung cấp sản phẩm cho các dự án công nghiệp liên quan như ngành hàng không, vũ trụ và tàu cao tốc.
Ông Trần Thiện Cảnh, Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam bày tỏ, kinh nghiệm các nước cho thấy, đường sắt tốc độ cao sẽ tạo điều kiện cho một quốc gia hình thành nền công nghiệp đường sắt, huy động được các tập đoàn lớn tham gia. Chẳng hạn, Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ từ Pháp, sau đó giao cho các tập đoàn công nghiệp lớn trong nước như Daewoo, Hyundai… tham gia hình thành một doanh nghiệp, yêu cầu nhà cung cấp Pháp phải ký hợp đồng với doanh nghiệp này để tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
Đây cũng chính là điều kiện để Việt Nam phát huy tối đa tinh thần độc lập, tự chủ; tiếp nhận được tinh hoa công nghệ của thế giới. Dự án triển khai sẽ tạo cơ hội và động lực để phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp cơ khí chế tạo.
Nhấn mạnh việc đầu tư xây dựng đường sắt sẽ tạo "cú hích" cho công nghiệp đường sắt và các ngành công nghiệp khác phát triển, từ bài học của các quốc gia khác, theo đó, các doanh nghiệp về chip, mạch điện tử như VNPT, Viettel hay sản xuất ô tô như Trường Hải đều có thể tham gia được. Các doanh nghiệp này không chỉ sản xuất các linh kiện điện tử, phụ kiện hay ô tô mà có thể làm công nghiệp phụ trợ đường sắt.
Ngoài ra, theo các chuyên gia, dự án đường sắt không chỉ thúc đẩy tiêu thụ thép trong ngắn hạn mà còn mở ra cơ hội tăng trưởng dài hạn cho ngành thép trong nước. Với tổng chiều dài tuyến đường lên đến hàng trăm km, khối lượng thép sử dụng sẽ rất lớn, tạo ra nguồn cầu ổn định và liên tục trong nhiều năm.
Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI), TS. Nguyễn Chỉ Sáng cũng cho rằng, Việt Nam nhất thiết phải làm chủ việc xây dựng, phát triển hệ thống đường sắt. Việc làm chủ ở đây không nên cứng nhắc là phải làm chủ 100% mà có tỷ lệ nội địa hóa và việc nhận chuyển giao công nghệ thích hợp. Việc này không chỉ đem lại sự tự chủ trong xây dựng các dự án mà còn làm giảm đáng kể giá thành trong giai đoạn thi công xây dựng, duy tu bảo dưỡng và phát triển công nghiệp nước nhà.
Bên cạnh đó, Việt Nam phải nghiên cứu dần, chuyển giao dần, tiếp quản dần công nghệ. Đồng thời, bản thân các doanh nghiệp cũng phải chủ động đề xuất những chính sách ưu đãi để hình thành và phát triển được cơ khí công nghiệp, nền cơ khí công nghiệp của đường sắt.
Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương đánh giá, dự án đường sắt tốc độ cao tại Việt Nam sẽ trở thành một trọng điểm trong chiến lược phát triển hạ tầng giao thông của quốc gia. Với mục tiêu kết nối các khu vực kinh tế trọng điểm, giảm thời gian di chuyển và tăng cường năng lực vận tải, dự án này không chỉ giúp hiện đại hóa hệ thống giao thông mà còn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp liên quan.