Số hóa di tích, hiện vật văn hóa các dân tộc thiểu số: Bảo tồn lâu dài, tiếp cận không giới hạn
Kỷ nguyên số đang mở ra cánh cửa mới cho công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích, hiện vật. Từ khu đền tháp cổ kính Mỹ Sơn đến các di tích, kho tàng hiện vật đa dạng của các dân tộc thiểu số tại Điện Biên, Đắk Lắk, Lâm Đồng... công nghệ trở thành cầu nối vững chắc, đưa bản sắc dân tộc tiếp cận gần hơn với công chúng trong và ngoài nước.
Từ Khu đền tháp Mỹ Sơn...
Trước tác động bào mòn của thiên tai, thời gian và những ảnh hưởng khách quan, số hóa không chỉ là một xu hướng công nghệ mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm sự tồn tại vĩnh cửu của di sản trong môi trường số.
Khu đền tháp Mỹ Sơn (Đà Nẵng) đang là điểm sáng trong chuyển đổi số để bảo tồn, quản lý và phát huy giá trị di tích. Ban Quản lý Di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn cho biết, đang tiến hành số hóa quét 3D toàn bộ công trình đền tháp và một số hiện vật tiêu biểu tại khu di tích.

Số hóa giúp đổi mới công tác bảo tồn, quản lý, phát huy giá trị di tích, hiện vật. Ảnh: Di sản Văn hóa thế giới Mỹ Sơn
Bên cạnh việc tập trung cho nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích quốc gia đặc biệt khu đền tháp Mỹ Sơn đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050, việc số hóa di tích và hiện vật cũng là một nhiệm vụ trọng tâm. Theo kế hoạch, đến hết năm 2025, đơn vị sẽ tiến hành số hóa toàn bộ di tích, phế tích kiến trúc; đồng thời chọn ra 200 hiện vật tiêu biểu để số hóa.
Mỹ Sơn là một công trình kiến trúc văn hóa lớn, có 60 phế tích kiến trúc và 3 vết tích kiến trúc cùng 2.278 hiện vật. Tuy nhiên, do chiến tranh, thiên tai, thời gian, các tòa tháp bị ảnh hưởng, tàn phá; một số cổ vật, bảo vật quốc gia bị bào mòn, phá hủy theo thời gian. Việc áp dụng công nghệ quét 3D laser cho toàn bộ công trình đền tháp và cổ vật, bảo vật quốc gia để giữ lại độ chính xác cao về cấu tạo, kiến trúc, chất liệu và kích thước thực tế. Dữ liệu từ file scan 3D sẽ là cơ sở lưu trữ vô cùng quan trọng để phục chế, phục hồi công trình và hiện vật nếu sự cố xảy ra.
Ông Nguyễn Công Khiết, Phó Giám đốc phụ trách Ban Quản lý di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn khẳng định: chuyển đổi số giúp công tác quản lý, phát huy giá trị hiện vật, di tích trở nên thuận tiện, hiệu quả hơn, bảo đảm lưu trữ dữ liệu vô hạn, cung cấp tư liệu chính xác, thuận tiện nhất khi cần thiết.
Cầu nối công nghệ - văn hóa
Việc số hóa không chỉ giới hạn ở các di sản kiến trúc lớn mà còn mở rộng sang kho tàng di sản các dân tộc thiểu số tại nhiều địa phương. Bảo tàng Lâm Đồng đã số hóa hơn 5.500 hiện vật và triển khai đề tài cấp tỉnh về "Ứng dụng công nghệ 4.0". Đơn vị còn tạo mã QR phục vụ tra cứu tại Nhà trưng bày và Di tích quốc gia đặc biệt khảo cổ Cát Tiên, cùng với việc tạo mã QR cho 61/83 di tích, danh thắng tiêu biểu.
Bảo tàng tỉnh Điện Biên đã số hóa gần 4.900 hiện vật và tài liệu liên quan trên các kênh trực tuyến. Mặc dù phòng trưng bày chỉ giới thiệu được khoảng 300 trong tổng số hơn 11.800 hiện vật, nhưng thông qua phần mềm, đơn vị đã số hóa gần 400 hiện vật 2D, trên 90 hiện vật 3D và số hóa tài liệu cho gần 4.400 hiện vật. Điều này giúp người xem dễ dàng tiếp cận, nghiên cứu lịch sử trực tuyến với thông tin cụ thể về chất liệu, nguồn gốc, kích thước.
Bảo tàng Đắk Lắk đã xác định mục tiêu bảo tồn vĩnh viễn và tiếp cận không giới hạn thông qua việc xây dựng kho dữ liệu số đa dạng (hình ảnh, video, mô hình 3D, âm thanh, văn bản). Bảo tàng đã xây dựng các nội dung đa phương tiện, trong đó có 27 video về văn hóa dân tộc, đa dạng sinh học và lịch sử. Đồng thời, triển khai ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để tạo 5 video clip tiếng Anh về di sản; hợp tác với Bảo tàng Lịch sử quốc gia tổ chức 14 buổi giảng trực tuyến với các chủ đề sâu sắc về kiến trúc Nhà dài của người Êđê, Không gian Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, thu hút hàng trăm học sinh tham gia…
Việc số hóa các di tích và hiện vật gắn liền với đời sống văn hóa của các dân tộc tại Việt Nam không chỉ là một bước tiến về công nghệ, mà còn là nỗ lực hiện đại hóa hoạt động bảo tồn, bảo tàng, nâng tầm công tác quản lý di sản, phá bỏ những rào cản vật lý và địa lý hạn chế khả năng tiếp cận của công chúng.
Theo các chuyên gia, số hóa tạo ra những bản sao kỹ thuật số chính xác, đem lại phương thức quản lý khoa học, hiện đại hóa công tác kiểm kê, xây dựng hệ thống hồ sơ và dữ liệu di sản một cách minh bạch, chuẩn xác. Quan trọng hơn, số hóa góp phần phát huy giá trị di sản, mở rộng khả năng tiếp cận cho cộng đồng thông qua các trải nghiệm tương tác đa dạng như mô hình 3D, thực tế ảo VR/AR hay mã QR. Những công cụ này không chỉ thu hút du khách trong và ngoài nước, mà còn khơi dậy sự quan tâm của thế hệ trẻ - những người sẽ tiếp nối hành trình gìn giữ và lan tỏa văn hóa dân tộc.
(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)














