Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới
Việt Nam đang hướng tới trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 dựa vào năng lực đổi mới sáng tạo và sức mạnh của nền kinh tế số. Trong bối cảnh đó, tài sản vô hình, từ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bí quyết công nghệ đến dữ liệu và phần mềm chính là 'mỏ vàng' của thời đại mới.
Tài sản vô hình trước “ma trận” thể chế
Theo ước tính của Ocean Tomo (ngân hàng thương mại chuyên về sở hữu trí tuệ tại Mỹ), tài sản vô hình hiện chiếm tới 90% giá trị của các doanh nghiệp niêm yết toàn cầu, tương đương khoảng 80 nghìn tỷ USD năm 2024. Ở Việt Nam, Báo cáo thường niên Hoạt động Sở hữu trí tuệ 2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, Cục Sở hữu trí tuệ tiếp nhận gần 153.000 đơn sở hữu công nghiệp, cấp hơn 53.600 văn bằng bảo hộ. Trong đó, bằng độc quyền sáng chế tăng gấp gần bảy lần, từ 668 (năm 2005) lên 4.430 (năm 2024), giải pháp hữu ích tăng hơn 60 lần, từ 74 lên 4.454. Điều này cho thấy, Việt Nam đã có nền tảng để bứt phá.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, tài sản vô hình không chỉ là thước đo trình độ sáng tạo mà còn là nguồn vốn chiến lược quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia. Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã xác định rõ: Việt Nam phải “thể chế hóa đổi mới sáng tạo” như một động lực phát triển.
Tuy nhiên, giữa chủ trương đúng đắn và thực tiễn thực thi vẫn tồn tại một khoảng cách đáng lo ngại. Bàn về việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ, đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân (TP. Hồ Chí Minh) cho biết, trong bối cảnh phát triển khoa học công nghệ và môi trường số, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng phức tạp, hàng giả, hàng nhái tinh vi hơn. Trong khi đó, việc bảo hộ, thương mại hóa, tổ chức sàn giao dịch hay xây dựng thị trường sở hữu trí tuệ vẫn rất hạn chế. Việc xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe, khiến tình trạng này gia tăng. Trong khi đó, quyền sở hữu trí tuệ quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh hiện nay, kể cả trong nước và quốc tế.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, những “mỏ vàng vô hình” chưa thật sự được khai mở, khi mà hệ thống pháp lý, tư pháp và tài chính vẫn đang chậm nhịp với tốc độ phát triển của công nghệ và doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt hiện nay phải “bơi” trong một “ma trận” luật chồng chéo. Chúng ta đang thiếu một khung pháp lý thống nhất, thiếu hướng dẫn cụ thể và thiếu cơ chế định danh rõ ràng cho tài sản vô hình. Đặc biệt, điểm nghẽn lớn của Việt Nam chính là thiếu một hệ thống pháp luật tốt, một nền tư pháp nhanh, chuyên nghiệp và đáng tin cậy. Nhiều doanh nghiệp chọn biện pháp hành chính thay vì khởi kiện ra tòa vì e ngại quy trình tố tụng kéo dài, phức tạp và thiếu tính dự đoán.
Trước thực tế này, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Việt Nam cần phải ưu tiên phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ để hướng tới mục tiêu thu nhập cao, biến tài sản trí tuệ thành nguồn lực kinh tế của doanh nghiệp, có thể định giá, thương mại hóa và trở thành lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Đây phải trở thành công cụ cạnh tranh chiến lược của doanh nghiệp và quốc gia vì ở các nước phát triển, tài sản vô hình thường chiếm tới 80% tổng tài sản.

Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho sở hữu trí tuệ là nhiệm vụ cấp bách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia
Từ “bảo hộ quyền” sang “khai thác giá trị”
Đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân đề nghị Chính phủ nghiên cứu xây dựng thêm hệ sinh thái và văn hóa sở hữu trí tuệ, coi đây là nhiệm vụ cấp bách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia, phù hợp xu thế khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Trong đó, cần có chính sách hỗ trợ đăng ký, ghi nhận, công bố, bảo hộ, khai thác và phát triển đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, nhất là với nhóm yếu thế như hộ sản xuất, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số. Dự thảo luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi cần siết chặt quy định để bảo đảm hệ thống đăng ký, xác lập quyền sở hữu trí tuệ minh bạch, nhanh chóng; đồng thời có quy định về đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng làm công tác này; nhiều đơn vị mong muốn có tòa án chuyên trách hoặc chuyên biệt trong xét xử các vụ tranh chấp sở hữu trí tuệ.
Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Nguyễn Thị Lan lưu ý, để quy định này khả thi, cần phân định rõ trường hợp được tự định giá và trường hợp bắt buộc định giá độc lập. Nếu sáng chế hoặc nhãn hiệu được tạo ra từ nguồn kinh phí cá nhân, chủ sở hữu có thể tự định giá; nhưng nếu dùng ngân sách nhà nước hoặc vốn từ các chương trình khoa học công nghệ quốc gia thì phải có tổ chức định giá độc lập và cơ chế kiểm định của cơ quan có thẩm quyền. Chính phủ ban hành tiêu chí, quy trình và cơ chế giám sát định giá, tránh tình trạng “thổi giá” hoặc “ảo hóa” tài sản trí tuệ.
Đặc biệt trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo (AI) đang thấm sâu vào từng hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội, nhiều ý kiến cho rằng cần có quy định công nhận quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra. Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa (chuyên trách thuộc Ủy ban Văn hóa - Xã hội) cho rằng cần tiếp cận quy định này theo mô hình có điều kiện, trong đó bảo đảm tính sáng tạo của con người là yếu tố cốt lõi. AI không phải chủ thể mà chỉ là công cụ; chủ thể quyền vẫn là con người - người sử dụng, điều khiển, đóng góp ý tưởng và quyết định nội dung sáng tạo. Cách tiếp cận này không phủ nhận vai trò của AI nhưng giữ yêu cầu về tính nguyên gốc của sản phẩm. Một số đại biểu đề nghị tách khái niệm tác phẩm do AI hỗ trợ và tác phẩm do AI tạo ra; đồng thời phải có tiêu chí xác định mức độ đóng góp sáng tạo của con người. Dự luật hiện chưa quy định trách nhiệm pháp lý khi AI tạo ra tác phẩm vi phạm bản quyền, vì vậy cần bổ sung nguyên tắc truy nguồn dữ liệu đầu vào, làm rõ vai trò sáng tạo của con người trong chuỗi tạo tác và hạn chế đăng ký bản quyền cho tác phẩm hoàn toàn do AI tạo ra.












