Sở hữu trí tuệ thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế số

Trong kỷ nguyên kinh tế số, tài sản cốt lõi của doanh nghiệp không chỉ là nhà xưởng, máy móc, mà còn là sáng chế, phần mềm, dữ liệu, nhãn hiệu. Việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ được xem là nền tảng để bảo vệ, khai thác và biến tài sản trí tuệ thành nguồn lực tài chính cho đổi mới sáng tạo.

Hoạt động nghiên cứu, phát triển sản phẩm tại Công ty cổ phần Sao Thái Dương.

Hoạt động nghiên cứu, phát triển sản phẩm tại Công ty cổ phần Sao Thái Dương.

Sở hữu trí tuệ đã trở thành trụ cột chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong nền kinh tế sáng tạo. Nghị quyết số 57-NQ/TW nhấn mạnh khẩn trương sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân yêu cầu hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, coi đây là nền tảng bảo vệ và phát huy giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp.

Đồng thời, Nghị quyết này đặt trọng tâm vào hỗ trợ doanh nghiệp định giá, đăng ký và khai thác tài sản trí tuệ, qua đó thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các Nghị quyết nêu trên là nền tảng chính trị-pháp lý vững chắc để Việt Nam chuyển mình từ kinh tế dựa vào tài nguyên sang dựa vào tri thức và sáng tạo.

Theo luật sư Lê Quang Vinh, Công ty Luật Bross &Partners, đổi mới sáng tạo là trụ cột cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân và tăng trưởng nền kinh tế số. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thật sự quan tâm đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Điều này dẫn đến việc sáng tạo không được bảo vệ, dễ bị sao chép hoặc không khai thác thương mại hiệu quả, từ đó làm giảm động lực đầu tư cho đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ ngày càng tinh vi, trong đó hành vi vi phạm nhãn hiệu và bao bì chiếm tỷ lệ cao.

Hành vi vi phạm nhãn hiệu, sao chép bao bì, mô phỏng tên gọi thương hiệu lan rộng trong nhiều ngành, từ thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, dược liệu, đến vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng và đặc sản vùng miền như cà phê, yến sào, gạo thơm. Đặc biệt, thương mại điện tử và mạng xã hội đang trở thành “vùng trũng kiểm soát”, nơi hàng hóa vi phạm được phát tán với tốc độ và quy mô vượt xa khả năng giám sát của cơ quan chức năng.

Nhiều doanh nghiệp phản ánh, dù phát hiện hành vi xâm phạm rõ ràng, việc xử lý vẫn bị chậm trễ, phân tán trách nhiệm hoặc thiếu chế tài đủ mạnh. Không ít trường hợp, hành vi xâm phạm chỉ bị xử phạt hành chính ở mức từ 20–50 triệu đồng- quá nhỏ so với lợi nhuận từ hành vi vi phạm, khiến một bộ phận doanh nghiệp chấp nhận bị phạt để tiếp tục hoạt động, tạo ra hiện tượng tái phạm có tổ chức.

Thí dụ tình trạng mạo danh “Yến sào Khánh Hòa” để tiêu thụ hàng không rõ nguồn gốc cũng đang diễn ra tràn lan. Dù một số địa phương và hiệp hội ngành hàng đã chủ động triển khai cơ chế xác thực và truyền thông, nhưng vẫn thiếu khung pháp lý đồng bộ và sự phối hợp hiệu quả giữa các lực lượng thực thi, doanh nghiệp và cộng đồng người tiêu dùng.

Nguyên nhân sâu xa không chỉ ở hành vi vi phạm, mà còn do yếu kém trong khâu tổ chức thực thi. Nhiều cơ quan chức năng còn lúng túng trong xác định hành vi vi phạm, thiếu nghiệp vụ chuyên môn về sở hữu trí tuệ hoặc ngại trách nhiệm. Công tác giám định là điều kiện bắt buộc trong xử lý nhiều hành vi xâm phạm nhưng cả nước hiện chỉ có vài tổ chức được cấp phép giám định , dẫn đến tình trạng tồn đọng hồ sơ và kéo dài thời gian tố tụng.

Theo luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Trương Anh Tú, Ủy viên Thường vụ Trung ương Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, hệ thống pháp luật đã có những bước hoàn thiện rõ rệt, nhất là Tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vừa mới được thành lập.

Tuy nhiên, để các tòa án này hoạt động thực sự hiệu quả và đáp ứng kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư, cần bảo đảm đội ngũ thẩm phán có nền tảng chuyên môn sâu về sở hữu trí tuệ và kinh tế thị trường; quy trình tố tụng rút gọn nhưng chặt chẽ; cùng cơ chế phối hợp hiệu quả với cơ quan giám định, điều tra và thi hành án. Đồng thời, phải cải cách toàn diện cơ chế giám định theo hướng hình thành trung tâm giám định độc lập, minh bạch về quy trình, có thời hạn bắt buộc và trách nhiệm giải trình rõ ràng.

Hiện nay, chế tài xử lý hành vi xâm phạm còn nhẹ, không đủ răn đe, trong khi lợi ích bất chính mà đối tượng vi phạm có thể thu được lại rất lớn, do đó, cần áp dụng mức phạt lũy tiến dựa trên tỷ lệ doanh thu vi phạm, kèm theo các biện pháp mạnh như đình chỉ hoạt động hoặc công khai hành vi vi phạm, để bảo đảm tính răn đe và bảo vệ môi trường kinh doanh công bằng.

Một giải pháp hiệu quả khác là thúc đẩy liên minh bảo vệ thương hiệu theo nhóm ngành hàng để thực hiện giám sát thị trường, hỗ trợ khởi kiện, công bố vi phạm và triển khai chiến dịch truyền thông tập thể. Một số tổ chức như Hiệp hội Yến sào Khánh Hòa đã tiên phong trong mô hình này, nhưng cần có hành lang pháp lý rõ ràng và cơ chế phối hợp với cơ quan Nhà nước để phát huy tối đa hiệu quả.

Hiện, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ đang được Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, dự kiến trình Chính phủ trong tháng 9 này. Điểm cốt lõi của lần sửa đổi này là sự chuyển dịch từ luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sang phát triển tài sản; khái niệm tài sản trí tuệ được nhìn nhận như một tài sản có thể giao dịch, định giá, làm bảo đảm, gọi vốn, niêm yết, và trở thành nền tảng cho các hoạt động tài chính-đầu tư.

Theo luật sư Trương Anh Tú, thực tiễn kinh doanh đang đòi hỏi phải bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ, do đó, dự thảo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ được các doanh nghiệp kỳ vọng là nền tảng giúp doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Một doanh nghiệp chi hàng chục tỷ đồng cho R&D, thiết kế bao bì, xây dựng thương hiệu, nhưng chỉ cần bị đối thủ “nhái” 70% là đủ mất thị trường. Một start-up sở hữu công nghệ lõi, nhưng ngân hàng không chấp nhận sáng chế làm tài sản bảo đảm. Một nhà khoa học có sáng chế được cấp bằng, nhưng không thể thương mại hóa hay chuyển giao vì… không ai định giá được. Trong bối cảnh ấy, việc “tài chính hóa tài sản trí tuệ” là cần thiết và cần xác lập pháp lý rõ ràng tài sản trí tuệ là tài sản có giá trị kinh tế như với bất động sản, cổ phiếu, hoặc tài sản hữu hình khác.

Cùng với đó, cần thiết lập chuẩn mực định giá tài sản sở hữu trí tuệ, ghi nhận kế toán, đưa vào bảng cân đối tài chính doanh nghiệp để có thể huy động vốn, phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), sáp nhập và mua bán doanh nghiệp (M&A); phát triển công cụ tài chính như bảo hiểm, tín dụng dựa trên tài sản trí tuệ, quỹ bảo lãnh đổi mới sáng tạo, để biến sáng tạo thành vốn cho phát triển kinh tế.

Ngoài ra, Luật Sở hữu trí tuệ phải “ăn khớp” với Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng, Luật Kế toán, Luật Chứng khoán…với mục tiêu Luật Sở hữu trí tuệ trở thành xương sống pháp lý của nền kinh tế số, bởi trong nền kinh tế số, tài sản cốt lõi của doanh nghiệp là sáng chế, phần mềm, dữ liệu, nhãn hiệu. Khi quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ, càng thúc đẩy việc thu hút dòng vốn, công nghệ và nhân tài để đổi mới sáng tạo trở thành động lực tăng trưởng thực sự.

Kinh nghiệm từ các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Israel cho thấy chính sách sở hữu trí tuệ chỉ thành công khi có sự tham gia của cả hệ thống, từ cơ quan lập pháp, ngân hàng, doanh nghiệp, trường đại học, quỹ đầu tư đến hệ thống tư vấn chuyên nghiệp. Ở Việt Nam, cần thúc đẩy hình thành mô hình này, tổ chức các diễn đàn trao đổi giữa các chủ thể trong hệ sinh thái tài sản trí tuệ.

HÀ LINH

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/so-huu-tri-tue-thuc-day-doi-moi-sang-tao-trong-nen-kinh-te-so-post907060.html