Sớm tháo gỡ 'điểm nghẽn' để Đông Nam bộ tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự phát triển và thịnh vượng của đất nước
Dưới dự quan tâm sâu sắc của Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư, sự ra đời của Nghị quyết số 24-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Đông Nam bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã củng cố sự tin tưởng, tạo sự phấn khởi trong Đảng bộ và nhân dân trong vùng, mang lại nguồn cảm hứng và động lực mới cho quyết tâm thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ thúc đẩy phát triển vùng Đông Nam bộ trong thời gian tới. Tỉnh Bình Dương bày tỏ sự thống nhất cao và sẽ phấn đấu thực hiện thật tốt những nhiệm vụ, giải pháp được nêu tại nghị quyết.
Mặc dù tình hình dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt, tuy nhiên còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó đoán định, đồng thời các bất ổn về chính trị thế giới liên tục nối tiếp nhau diễn ra kéo theo nhiều hệ quả tiêu cực cho nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, Việt Nam đang ngày càng được thế giới nhắc đến nhiều hơn với sự thành công trong điều hành kinh tế vĩ mô và kiểm soát tốt lạm phát; tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2022 của nước ta đạt 8,83% so với cùng kỳ năm trước… Đóng góp vào sự ổn định và tăng trưởng đó, vùng Đông Nam bộ với lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi từ lâu đã trở thành vùng kinh tế năng động sáng tạo, đi đầu trong đổi mới và phát triển của cả nước, đảm nhiệm chức năng đầu mối giao thương của cả khu vực và với thế giới. Trong đó, cùng với TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương đã trở thành vùng động lực trong tứ giác kinh tế phát triển của Đông Nam bộ.
Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: TTVXN
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng các bộ, ban, ngành Trung ương; qua tổng kết 25 năm - Bình Dương hình thành và phát triển, quy mô kinh tế của tỉnh tính đến cuối năm 2021 đạt 408.861 tỷ đồng (gấp 104,3 lần so với năm 1997), đứng thứ 3 cả nước; trong đó nông nghiệp tăng 14,2 lần, dịch vụ tăng 112,2 lần, công nghiệp tăng 140,6 lần. Bình Dương đã được đánh giá là địa phương không còn hộ nghèo theo tiêu chí Trung ương; là một trong số những địa phương thuộc tốp đầu cả nước về thu nhập bình quân đầu người, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút đầu tư trong nước, thu ngân sách, đóng góp ngân sách Trung ương… Những kết quả bước đầu đó đã góp phần đưa Bình Dương sớm trở thành địa phương đạt mức thu nhập trung bình cao.
Tuy nhiên, hiện nay ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tỉnh tế của tỉnh, năng suất lao động còn thấp, dân số cơ học tăng cao... đã đặt Bình Dương đứng trước thách thức sớm phải đương đầu và vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Xác định đây không chỉ là bài toán về năng suất lao động, phát triển kinh tế, mà còn là bài toán phát triển bền vững, bài toán bình đẳng xã hội, phát triển bao trùm và đồng đều, bài toán đô thị hóa, kết nối, hội nhập phát triển, tỉnh Bình Dương đã xây dựng chiến lược để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, gắn chặt chẽ với đề án Quy hoạch tích hợp tỉnh và quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị trong phát triển vùng Đông Nam bộ, đó là: Phát triển Bình Dương phải phù hợp với các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng và đất nước, bảo đảm thống nhất với quy hoạch vùng và quốc gia; bảo đảm tính kế thừa phát triển; đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng công nghiệp và tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, tăng năng suất lao động tổng hợp thông qua phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo; tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; phát triển bảo đảm an sinh, an toàn xã hội; huy động tối đa nguồn nội lực, kết hợp hài hòa ngoại lực để phát triển nhanh nhưng bền vững, tích cực chủ động hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị đã xác định khu vực Nam Bình Dương thuộc tiểu vùng trung tâm phát triển của toàn vùng - nổi bật với các thế mạnh về công nghiệp công nghệ cao và chuyên sâu, dịch vụ chất lượng cao, giáo dục - đào tạo, y tế và đầu mối giao thương với quốc tế; khu vực Bắc Bình Dương thuộc tiểu vùng phía Bắc là khu vực phát triển kinh tế cửa khẩu, kho vận, mở rộng không gian phát triển công nghiệp của vùng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, Bình Dương sẽ thực thi việc tái cấu trúc mạng lưới công nghiệp nội tỉnh và xây dựng các mô hình công nghiệp - đô thị - dịch vụ mới, gắn liền với quy hoạch vùng. Bình Dương đã xác định cần tiếp tục nâng cấp mô hình phát triển công nghiệp của tỉnh nhằm từng bước rời xa thâm dụng lao động và thâm dụng đất đai.
Chuyển đổi mô hình phát triển từ công nghiệp - đô thị - dịch vụ hiện nay sang mô hình phát triển công nghiệp - đô thị - dịch vụ theo hướng thông minh - bền vững. Đó là xây dựng và nâng cấp các khu công nghiệp hiện hữu trở thành các khu công nghiệp thông minh, với khả năng cung cấp nền tảng công nghệ 4.0 (như IoT, Big Data…) để giúp nhà đầu tư dễ dàng xây dựng, triển khai mô hình nhà máy thông minh, sản xuất thông minh một cách nhanh chóng và hiệu quả nhằm gia tăng năng suất lao động, bảo vệ môi trường. Đồng thời, tỉnh triển khai thực hiện mô hình công nghiệp - đô thị - dịch vụ quốc tế gắn liền với khoa học và công nghệ, thu hút các viện - trường, các hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo, các ngành dịch vụ, dịch vụ số nhằm thu hút các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao.
Qua quá trình phát triển, Bình Dương bước đầu đã tích lũy được một nền tảng hạ tầng kỹ thuật giao thông, đô thị tương đối đồng bộ, thể hiện qua việc Bình Dương sớm hoàn thiện các phân đoạn chính thuộc tuyến đường Vành đai 3 và một số đoạn thuộc Vành đai 4 đi qua tỉnh, tích hợp trực tiếp vào các tuyến đường trục chính nội tỉnh như Mỹ Phước - Tân Vạn - Bàu Bàng kết nối về phía cảng biển, sân bay quốc tế. Điều đặc biệt là những tuyến đường này được hoàn thành thông qua quá trình huy động nguồn lực, thu hút đầu tư phát triển hạ tầng công nghiệp của các doanh nghiệp đầu tàu của tỉnh, được hoàn thiện từ nguồn vốn doanh nghiệp, góp phần rất hiệu quả trong chia sẻ gánh nặng về ngân sách.
Về nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đô thị, Nghị quyết số 24 đã xác định cần thiết phải “Hình thành vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ, logistics dọc hành lang Vành đai 3, Vành đai 4 và các tuyến cao tốc của vùng”. Vì vậy, trong quá trình xây dựng quy hoạch tích hợp, hiện nay tỉnh đã quy hoạch các khu vực phát triển đô thị, khu vực phát triển công nghiệp dọc các tuyến vành đai - cao tốc này. Điều đó sẽ tạo ra một không gian phát triển mới với nhiều dư địa để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, di dời các doanh nghiệp/các khu công nghiệp trong đô thị không còn phù hợp quy hoạch, đồng thời tạo nguồn thu lớn từ quỹ đất để tái đầu tư phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Dương đã có chủ trương và quyết tâm thực hiện công tác giải tỏa theo quy mô quy hoạch và thông tuyến các đường vành đai 3, 4, cao tốc TP.Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một - Chơn Thành đi qua địa bàn Bình Dương trong giai đoạn 2023 - 2025.
Mặc dù mục tiêu, định hướng đã rõ ràng, nhưng để hiện thực hóa Nghị quyết số 24 thì còn nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Qua quá trình thực hiện báo cáo tổng kết Nghị quyết 53-NQ/TW ngày 29-8-2005 của Bộ Chính trị, tỉnh Bình Dương đã nêu những điểm nghẽn cố hữu mà vùng Đông Nam bộ nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ liên kết phát triển vùng đã và đang gặp phải. Những tồn tại, hạn chế đó đã được xác định rõ trong Nghị quyết số 24.
Để đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế của vùng Đông Nam bộ và nâng cao tính năng động của các địa phương trong vùng như tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị, tỉnh Bình Dương kiến nghị Trung ương: Sớm hoàn thành quy hoạch vùng làm cơ sở triển khai đầu tư hoàn thiện hạ tầng kinh tế - xã hội vùng, nhất là hạ tầng giao thông kết nối; có các chính sách để các địa phương phối hợp trong công tác đào tạo, thu hút và cung ứng nguồn nhân lực. Xem xét cơ chế thúc đẩy, phân bổ nguồn lực đầu tư phù hợp với điều kiện từng địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm. Cần có cơ chế đặc thù cho vùng trong điều tiết ngân sách cũng như quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa cho các tỉnh trong vùng nói chung và Bình Dương nói riêng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực...
Bên cạnh đó, kiến nghị Trung ương xem xét, phân bổ nguồn lực biên chế phù hợp, tương xứng với quy mô, tiềm năng phát triển của tỉnh để đáp ứng các nhu cầu phát triển hiện tại của địa phương. Sớm thể chế hóa các nội dung của Nghị quyết để có định hướng, cơ chế, chính sách đặc thù để vùng tận dụng các cơ hội sẵn có, sớm hướng đến những mục tiêu, định hướng rõ ràng đã được Bộ Chính trị đặt ra. Kiến nghị Trung ương sớm sửa đổi các luật liên quan đến đầu tư công cũng như hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh như Luật Đầu tư công, Luật Đất đai (giá trị đền bù, nguồn gốc đất...), Luật Ngân sách nhà nước (phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp), Luật Xây dựng (phân cấp cơ quan thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế cơ sở...) theo nguyên tắc bảo đảm hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng để tạo thuận lợi cho việc đẩy nhanh quá trình đưa vốn đầu tư vào nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của quốc gia.
Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng Đông Nam bộ đã được Trung ương ban hành sau khi đã tổng kết đánh giá sâu sắc kết quả gần 20 năm thực hiện Nghị quyết số 53; với nhiều quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp có tính chất đột phá. Nghị quyết cũng được ban hành trong thời gian các địa phương thực hiện quy hoạch vùng, quy hoạch tích hợp tỉnh - đây là điều kiện vô cùng thuận lợi để các địa phương trong vùng tiếp tục rà soát, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh với tầm nhìn đến năm 2045. Các mục tiêu, chỉ tiêu đó sẽ được thực hiện với nhiều giải pháp, trong đó sẽ phải thực hiện hiệu quả qua công cụ quy hoạch.
Với những tình cảm và sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Bộ Chính trị, của Chính phủ, của bộ, ngành Trung ương; với những nền tảng, tiềm năng sẵn có của vùng, tin tưởng rằng vùng Đông Nam bộ hứa hẹn tiếp tục sẽ là một vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển và thịnh vượng chung của đất nước.