Sự đảo ngược đáng kinh ngạc của thành kiến lâu đời nhất nhân loại
Số lượng trẻ sơ sinh nam nhiều hơn trẻ sơ sinh nữ mỗi năm đã giảm từ mức đỉnh 1,7 triệu (năm 2000) xuống còn khoảng 200.000. Tỷ lệ giới tính khi sinh đang quay trở lại gần với tỉ lệ sinh học chuẩn: 105 bé trai/100 bé gái.

Từ năm 1983 đến 2003, tỷ lệ phụ nữ Hàn Quốc thấy "cần thiết" phải có con trai đã giảm từ 48% xuống còn 6%, trong khi gần một nửa phụ nữ nước này hiện muốn có con gái
Có lẽ hình thức thành kiến lâu đời nhất và tai hại nhất của con người là sự thiên vị đàn ông hơn phụ nữ. Nó thường bắt đầu từ thời điểm đứa trẻ được sinh ra. Ở Athens cổ đại, tại buổi lễ công khai gọi là amphidromia, người cha sẽ kiểm tra đứa trẻ sơ sinh và quyết định xem nó có thể trở thành một phần của gia đình hay sẽ bị bỏ rơi. Lý do thường được xã hội chấp nhận để bỏ rơi đứa trẻ: Đó là một bé gái.
Giết trẻ sơ sinh là một hiện tượng đáng lo ngại ở nhiều xã hội và thực tế này không chỉ có trong lịch sử cổ đại. Năm 1990, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Amartya Sen đã xem xét tỷ lệ sinh ở Châu Á, Bắc Phi và Trung Quốc và tính toán rằng hơn 100 triệu phụ nữ về cơ bản là "mất tích" - nghĩa là, dựa trên tỷ lệ bình thường giữa bé trai và bé gái khi sinh ra và tuổi thọ của cả hai giới, có một số lượng lớn bé gái bị "mất tích", những bé gái đáng lẽ phải được sinh ra.
Chính sách một con và định kiến cũ từng khiến nhiều gia đình tuyệt vọng, chỉ muốn con duy nhất của mình phải là con trai. Tạp chí The Economist ước tính rằng chỉ tính từ năm 1980, đã có khoảng 50 triệu bé gái trên toàn thế giới không được sinh ra so với con số tự nhiên được mong đợi - điều này gần như chắc chắn toàn bộ các bào thai bé gái đó đã bị phá bỏ chỉ vì giới tính. Sự thiên vị con trai là một định kiến giết chết hàng loạt sinh mạng.
Tuy nhiên, một trong những chuyển biến xã hội quan trọng nhất của thời đại chúng ta, định kiến đó đang thay đổi. Trong một bài viết trang bìa nổi bật đầu tháng 6/2025, The Economist cho biết số lượng trẻ sơ sinh nam (nhiều hơn trẻ sơ sinh nữ) mỗi năm đã giảm từ mức đỉnh 1,7 triệu (năm 2000) xuống còn khoảng 200.000, tức đã quay trở lại gần mức tỉ lệ sinh học chuẩn là 105 bé trai/100 bé gái.Nh ững quốc gia từng có tỉ lệ giới tính chênh lệch nghiêm trọng như Hàn Quốc (năm 1990 từng đạt gần 116 bé trai/100 bé gái) nay đã trở lại với tỉ lệ bình thường hoặc gần bình thường.
Tổng thể, The Economist ước tính rằng sự suy giảm trong thiên kiến giới tính khi sinh trong 25 năm qua đã "cứu sống" khoảng 7 triệu bé gái - một con số ngang với số sinh mạng được cứu nhờ các nỗ lực chống hút thuốc ở Mỹ. Vậy chính xác thì nhân loại đã vượt qua được định kiến tưởng như ăn sâu trong xã hội con người này như thế nào?

Tạp chí The Economist ước tính sự suy giảm định kiến chỉ coi trọng con trai 25 năm qua đã cứu được khoảng 7 triệu bé gái trên toàn cầu. Ảnh: Antoine Lassalle/Getty
Thành công trong giáo dục và việc làm
Một phần lý do là vì sự phân biệt đối xử với nữ giới trong giáo dục và việc làm đã được nới lỏng. Khi các rào cản giảm đi, các bé gái ngày càng vượt trội so với bé trai trong học tập. Trong kỳ khảo sát PISA quốc tế gần nhất - được coi là tiêu chuẩn vàng trong đánh giá năng lực học sinh toàn cầu - các bé gái 15 tuổi vượt các bạn nam trong môn đọc hiểu ở 79/81 quốc gia hoặc vùng kinh tế, trong khi lợi thế truyền thống của nam giới trong môn Toán đã giảm xuống chỉ còn ở mức một chữ số.
Các cô gái cũng chiếm ưu thế trong giáo dục đại học, với 113 sinh viên nữ/100 sinh viên nam. Trong khi phụ nữ tiếp tục kiếm được ít tiền hơn nam giới, khoảng cách lương theo giới tính đã thu hẹp lại, và ở một số khu vực thành thị tại Hoa Kỳ, nữ thanh niên thực sự kiếm được nhiều tiền hơn nam trên một số lĩnh vực.
Các chính sách của chính phủ đã giúp đẩy nhanh sự thay đổi đó, một phần vì họ đã nhận ra những vấn đề xã hội nghiêm trọng, hậu quả của nhiều thập kỷ phân biệt đối xử với trẻ em gái. Ở các quốc gia như Hàn Quốc và Trung Quốc, nơi từ lâu đã có tỷ lệ giới tính khi sinh lệch lạc nhất, các chính phủ đã không cho phép chọn lọc giới tính thai nhi. Ở Ấn Độ, nơi mà nạn giết trẻ sơ sinh gái và bỏ bê trẻ em gái đặc biệt khủng khiếp, những khẩu hiệu như "Cứu con gái, giáo dục trẻ em gái" đã mang lại thay đổi.
Chuyển biến
Sự thay đổi này không chỉ được nhìn thấy ở tỷ lệ giới tính khi sinh mà còn trong các cuộc thăm dò ý kiến của những người sắp làm cha mẹ.
Theo báo cáo của The Economist, từ năm 1983 đến năm 2003, tỷ lệ phụ nữ Hàn Quốc thấy "cần thiết" phải có con trai đã giảm từ 48% xuống còn 6%, trong khi gần một nửa phụ nữ nước này hiện muốn có con gái. Ở Nhật Bản, sự thay đổi này thậm chí còn đi xa hơn nữa - ngay từ năm 2002, 75% các cặp vợ chồng chỉ muốn có một đứa con, và phần lớn hy vọng có con gái.
Tại Hoa Kỳ, nơi cho phép lựa chọn giới tính cho các cặp đôi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy những người muốn làm cha mẹ thích có con gái. Trong khi trước đây, những cha mẹ sinh con gái trước có nhiều khả năng tiếp tục cố gắng sinh con trai, thì giờ đây điều ngược lại đã đúng - những cặp đôi sinh con gái trước lại ít muốn sinh thêm con trai.
Một tương lai bình đẳng hơn
Dẫu thế, ở phía Tây Bắc Ấn Độ, tỷ lệ sinh quá lệch về phía con trai vẫn là chuẩn mực. Ở các vùng thuộc Châu Phi cận Sahara, tỷ lệ giới tính khi sinh có thể tương đối bình thường nhưng tình trạng phân biệt đối xử sau sinh dưới hình thức dinh dưỡng kém hơn và chăm sóc y tế kém hơn vẫn còn tồn tại. Tất nhiên, phụ nữ trên khắp thế giới vẫn phải chịu mức độ bạo lực và phân biệt đối xử không thể chấp nhận được từ nam giới.
Một số lý do cho sự thay đổi này có thể không cao cả như chúng ta muốn nghĩ. Các bé trai trên khắp thế giới đang phải vật lộn trong thời đại hiện đại. Các em ngày càng học kém, có nhiều khả năng tham gia vào tội phạm bạo lực và nói chung là gặp khó khăn khi bước vào tuổi trưởng thành. Ở Hoa Kỳ, 20% nam giới trong độ tuổi từ 25 đến 34 vẫn sống với cha mẹ, so với 15% phụ nữ ở độ tuổi tương tự.
Có vẻ như ít nhất một số sở thích ngày càng tăng đối với con gái bắt nguồn từ định kiến phân biệt giới tính. Các bậc cha mẹ trên khắp thế giới hiện nay có thể thích con gái một phần vì họ thấy con gái có nhiều khả năng chăm sóc họ khi về già hơn - nghĩa là một loại định kiến khác đối với phụ nữ, rằng họ là người chăm sóc tự nhiên hơn, có thể là nghịch lý thúc đẩy sự suy giảm định kiến đối với việc sinh con gái.
Nhưng dẫu sao sự suy giảm sở thích sinh con trai cũng là một dấu hiệu rõ ràng của tiến bộ xã hội, được đo bằng hàng triệu mạng sống của trẻ em gái. Có thể vào một Ngày của Cha nào đó, không lâu nữa, chúng ta sẽ đạt đến điểm mà con gái và con trai chỉ đơn giản được coi là trẻ em: được yêu thương và chào đón như nhau.